Thứ Ba, 16 tháng 8, 2016

Làm sao một linh mục hoàn tất vụ án phong thánh cho Mẹ Teresa

Làm sao một linh mục hoàn tất vụ án phong thánh cho Mẹ Teresa

13 tháng 8, 2016
mother teresa
Cha Brian Kolodiejchuk tuần trước ở Roma trong trụ sở dòng của ngài, Các Cha Thừa sai Bác ái, được Mẹ Teresa thành lập. Cha là cáo thỉnh viên cho vụ án phong thánh của mẹ. CreditNadia Shira Cohen for The New York Times

Mẹ Teresa sẽ chính thức được Đức Thánh Cha Phanxico tôn phong hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 tại Roma. Được toàn thế giới biết với tên gọi “Vị thánh của Calcutta,” mẹ đã lập dòng nam và nữ tu phục vụ người nghèo ở trên hơn 130 quốc gia. Ngay cả với một người phụ nữ là biểu tượng của sự thánh thiện trong thế giới hiện đại, Giáo hội Công giáo Roma vẫn đòi hỏi có người thu thập được những bằng chứng về phép lạ và trình bày vụ việc chứng minh Mẹ xứng đáng được công nhận là thánh.
Người đó là Cha Brian Kolodiejchuk, một linh mục người Canada và là thành viên của Dòng các Cha Thừa sai Bác ái (Missionaries of Charity Fathers), một dòng tu được Mẹ Teresa thành lập. Một thời gian ngắn sau khi Mẹ qua đời ở tuổi 87, cha được chọn làm cáo thỉnh viên — người chịu trách nhiệm chính cho vụ án phong thánh của Mẹ. Cha Brian, ngài phải phân chia thời gian giữa Roma và nhà Thừa sai Bác ái ở Tijuana, Mexico, cũng là người biên tập của quyển sách mới “Một tiếng gọi của Lòng thương xót: Những trái tim yêu thương, Những đôi tay phục vụ,” (“A Call to Mercy: Hearts to Love, Hands to Serve,”) lấy từ những lời giảng dạy của Mẹ Teresa và chứng tá về đời sống của Mẹ. Cha được phỏng vấn hồi tháng 8 trước khi rời đi Roma để chuẩn bị cho lễ phong thánh. Bài phỏng vấn này đã được biên tập và rút ngắn lại.

Bằng cách nào cha gặp được Mẹ Teresa?
Chị gái của tôi — chúng tôi chỉ có 2 người — gia nhập Dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái năm 1976, và một năm sau cha mẹ tôi và tôi từ Winnipeg đến gặp chị ở Roma. Trong Thánh lễ với sáu thầy dòng chiêm niệm, Mẹ Teresa cài một thánh giá trên một linh mục và 6 giáo dân. Các nhánh dòng nam của M.C. đeo một thánh giá trên ngực trước trái tim, và các nữ tu đeo thánh giá trên vai, cũng có mục đích giữ bộ áo sari. Sau Thánh lễ, khi chúng tôi đang chào tạm biệt nhau, Mẹ Teresa nói với tôi, “À, Mẹ cũng muốn gắn một thánh giá trên người con.” Lúc đó tôi 21 tuổi, và đây chính là Mẹ Teresa nói chuyện với tôi, tôi thực sự choáng váng, tôi không nói gì được. Sáng hôm sau, sau Thánh lễ, trong cộng đoàn San Gregorio, tôi đã lấy đủ can đảm đến trước Mẹ và hỏi Mẹ rằng ý Mẹ là sao. Mẹ mời tôi gia nhập dòng các thầy. Và tôi đã nghe lời.

Thường thường cần phải có hai phép lạ để quyết định phong thánh — một để phong chân phước và một phép lạ khác để phong hiển thánh. Bằng cách nào cha điều tra được hai phép lạ?
Đúng là phải chờ đợi và hy vọng người ta báo cáo điều gì đó. Phép lạ thứ nhất, phép lạ cần cho phong chân phước, là chị Monica Besra ở Bengal, Ấn độ. Monica có một khối u, giống như một cục bướu, trong bụng, và nó kích thước 16 hay 17 cm — đại để bằng cỡ một phụ nữ mang thai 6 tháng. Gia đình chị đã chạy đủ cách, và không có gì hiệu quả. Họ mang chị đến với các nữ tu, và các nữ tu đem chị đến bác sĩ, sau đó bác sĩ gửi chị về nhà ngày 31 tháng 8 năm 1998. Gần như là chị sắp chết. Ngày 5 tháng 9, ngày giỗ đầu tiên của Mẹ Teresa, chị nữ tu bề trên lấy một mề-đay ảnh Đức Mẹ Maria đã đặt trên xác Mẹ Teresa trong tang lễ, và đặt trên bụng của Monica và đọc một lời cầu nguyện đơn sơ: “Mẹ ơi, hôm nay là ngày của Mẹ. Mẹ yêu người nghèo. Mẹ hãy làm gì cho chị Monica đi.” Lúc đó khoảng 5 giờ chiều ngày Thứ bảy. Lúc 1 giờ sáng, Monica thức dậy lúc nửa đêm đi vào phòng vệ sinh, chị phát hiện thấy bụng mình phẳng lì trở lại. Sáng Chúa nhật, các chị nữ tu nhìn thấy chị ấy thức dậy và đang quét nhà bằng một cây chổi, và các chị kêu lên, “Woa woa, có chuyện gì với Monica vậy?

Nhưng lấy gì để chứng minh rằng đó thực sự là một phép lạ, và y khoa và khoa học không có lời giải thích cho việc này?
Người ta rất nghiêm ngặt về những điều này. Ở Brazil, một vị cáo thỉnh viên tôi có quen trong một vụ án phong thánh khác nhận được tin nói rằng vụ án phép lạ mà cha đưa ra bị từ chối, vì nó không tự nhiên. Trong vụ ở Ấn độ của Mẹ Teresa, có 11 bác sĩ được hội ý, và chỉ có 1 người là Công giáo. Những người kia là Hindu. Anh không được hỏi các bác sĩ liệu họ có nghĩ đó là một phép lạ không. Anh chỉ được hỏi họ rằng, “Quý vị có thể giải thích điều này theo y khoa không?”




mother teresa
Một tranh ghép ảnh Mẹ Teresa treo trong vườn sau của nhà, Cha Brian ở bên phải. Khu nhà đã được biến thành gần như một bảo tàng để tôn vinh Mẹ. CreditNadia Shira Cohen for The New York Times




Tại sao lại cách đến 10 năm giữa phép lạ thứ nhất và phép lạ thứ hai?
Cũng có những vụ khác, nhưng khi chúng tôi có tài liệu, tôi hỏi ý những bác sĩ tôi biết ở Scripps [phòng y Scripps Clinic Torrey Pines ở La Jolla, California] hoặc ở Tijuana, và thường bác sĩ nói, “Nó có thể xảy ra một cách tự nhiên.” Tôi có một vụ khác, mọi thứ diễn ra trông có vẻ khá thuận lợi, ngoại trừ người mẹ chồng viết cho tôi một lá thư và nói rằng bà cầu nguyện thánh Padre Rio suốt năm. Và như vậy là kết thúc chuyện đó. Phép lạ đó của ai, của Mẹ Teresa hay của Padre Pio?
Phép lạ thứ hai cuối cùng cũng đã xảy ra ở Brazil (second miracle), và lần này là một người đàn ông tên Marcilio. Ông ta bị nhiễm khuẩn não gây ra nhiều áp-xe … và ông bị tràn dịch não. Vợ ông bắt đầu làm tuần cửu nhật, chín ngày cầu nguyện với Mẹ Teresa, và bà yêu cầu mọi người trong gia đình cùng cầu nguyện như bà. Ngày 9 tháng 12, lúc 2 giờ sáng, Marcilio bị một cơn đau dữ dội ở đầu, và đi vào hôn mê. Ông ta gần như chết. Cuối cùng bác sĩ phải đưa ông ta vào phòng mổ, hy vọng hút dịch ra, nhưng bác sĩ không thể làm theo cách ông đã dự định, ông rời phòng mổ khoảng 6.10 tối để tìm một bác sĩ có thể thực hiện theo cách khác. Khi bác sĩ quay lại phòng mổ — bất lực trong cố gắng của mình — ông thấy Marcilio đã tỉnh dậy, không đau, và bệnh nhân hỏi, “Tôi đang làm gì ở đây?” Hai bản chụp (scan) não được thực hiện, một bản ngày 9 tháng 12, và một bản ngày 13 tháng 12, và tất cả các bác sĩ giải phẫu nhìn vào 2 bản scan và tất cả họ nói rằng bạn không có cách chi bước từ điểm này sang điểm khác như vậy. Bác sĩ thậm chí nói với em trai của Marcilio rằng ông đã có 30 bệnh nhân bị tràn dịch não như vầy và 29 người đã chết. Chỉ một mình Marcilio sống.

Mẹ Teresa cũng bị những chỉ trích (her critics). Người ta tố cáo mẹ điều hành những cơ sở cung cấp sự chăm sóc không đủ tiêu chuẩn, và có phần ưu ái những nhà độc tài như Enver Hoxha ở Albani và  Jean-Claude Duvalier của Haiti. Tiến trình điều tra phong thánh có xét đến những cáo buộc này không?
Ồ, có chứ. Thực ra, Christopher Hitchens được gọi đến làm nhân chứng, ở Washington. Khi chúng tôi chuẩn bị điều tra vụ án thực sự, chính tôi và những người trợ giúp đã xem bộ phim của ông ta “Thiên thần của Địa ngục” (Hell’s Angel) và đọc quyển sách của ông “Địa vị Thừa sai.” (Missionary Position). Chúng tôi đã phải nghiêm túc xem xét vấn đề. Nhưng một số trong đó là thông tin sai lệch. Mẹ không bao giờ nhận bất kỳ đồng tiền nào từ Duvalier. Và trong phim, Hitchens cho thấy Mẹ đến mộ của Enver Hoxha, một kẻ độc tài. Mẹ đã làm gì ở đó? Sự thật là Mẹ yêu cầu được đến thăm mộ của mẫu thân và chị gái của Mẹ. Những người hộ tống của chính phủ đưa Mẹ đến mà không nói với Mẹ rằng đó là đến mộ của Hoxha. Sau đó Mẹ hỏi, vậy bây giờ tôi có thể đến mộ của mẫu thân và chị gái tôi chứ? Người thông dịch Albani, cũng là người làm chứng cho Mẹ nói rằng, “Ở Albani chúng tôi chỉ biết rằng bất cứ khách nước ngoài nào cũng phải được đưa đến mộ của Enver Hoxha.” Đó là một phần của nghi thức ngoại giao.

Ở Ấn độ, có một số oán giận cho rằng Mẹ Teresa đã làm cho Calcutta đồng nghĩa với sự nghèo đói.
Không phải là Mẹ cố gắng tập trung vào sự nghèo đói ở Calcutta. Đó chỉ là nơi Mẹ bắt đầu. Điều thú vị là sau Ấn độ, quốc gia có số nhà nhiều nhất được điều hành bởi dòng Thừa sai Bác ái là Hoa Kỳ. Mẹ vẫn nói rằng sự nghèo đói lớn nhất của thế giới ngày nay là không được yêu thương, bị lãng quên và không được chăm sóc, và đó là sự nghèo đói khó khăn và gian nan hơn khi tiếp cận.

Những thư riêng và bài viết của Mẹ Teresa, đã được xuất bản trong một quyển sách mà cha biên tập (a book) năm 2007 nhân kỷ niệm giỗ thứ 10 của Mẹ, tiết lộ cho biết rằng Mẹ đã chịu đựng trong nhiều thập kỷ sự lo âu đau khổ vì Thiên Chúa đã bỏ rơi Mẹ. Đó có phải là một hình thức đau khổ tinh thần như là điều kiện tiên quyết để nên thánh, hay chỉ đơn thuần là một chướng ngại?
Trong tài liệu Positio — đó là tài liệu vụ án được viết bằng tiếng La tinh điều tra đời sống Ki-tô hữu của Mẹ Teresa — chúng tôi có một chương nói về bóng tối vì nó là một nét rất đặc trưng. Chúng tôi phải điều tra vấn đề đó nhờ vào mầu nhiệm thánh truyền. Không có gì ngạc nhiên khi Mẹ cũng có tình trạng đó vì mọi vị thánh đều có. Có điều thực sự ngạc nhiên hơn là nó kéo dài quá lâu, gần 50 năm. Sống được như vậy thật là vị anh hùng. Một người không đủ trưởng thành chắc chắn sẽ bị nghiền nát trong một trải nghiệm như vậy. Mẹ đã chịu đựng sự cô đơn, ý thức không được yêu, bị ruồng bỏ trong mối quan hệ của Mẹ với Chúa Giê-su, nhưng trong tình hiệp thông và đồng hóa với người khác, những người về một  mặt nào đó sống ý nghĩa sự cô đơn và không được yêu thương.

Cha rất hài lòng chứng kiến Mẹ được tôn phong là một vị thánh.
Đã qua 17 năm,từ 1999. Thật tuyệt vời khi được đứng ở đó trong buổi sáng Chúa nhật. Nghi thức tôn phong thánh sẽ diễn ra trước Thánh lễ. Vị Tổng trưởng Bộ phong thánh đọc thỉnh cầu chính thức, và tôi sẽ đứng cạnh ngài. Tạ ơn, tôi phải mở miệng nói gì hết.




[Nguồn: www.nytimes]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 16/08/2016]



Gặp người đàn ông được Thánh Maximilian Kolbe thế mạng ở Auschwitz


WEB-Auschwitz-Turbo-Mi-CC

Gặp người đàn ông được Thánh Maximilian Kolbe thế mạng ở Auschwitz

14 tháng 8, 2016


Vị Thánh vĩ đại chết 75 năm trước — và tôi được nhắc lại câu chuyện vĩ đại này (this great story) từ năm ngoái, một câu chuyện nhiều người cần phải biết:


Trong một thời khắc ở trại Auschwitz, ông ta trở thành cánh cửa xoay mà một vị linh mục đã bước qua cái chết và trở nên thánh.


Franciszek Gajowniczek đứng cạnh bàn thờ sau Rước Thánh Thể tối Thứ bảy và trình bày với hội đồng qua một thông dịch viên, Maria McGinn, một giáo dân người Ba lan.


Ngày 30 tháng 7, 1941, tại trại tập trung Auschwitz ở cuối đất nước Ba lan, một sĩ quan Đức ra lệnh cho những người đàn ông trong một trại ra xếp hàng, vì một tù nhân trong trại đó đã trốn khỏi trại.


Gajowniczek nói, “Việc này được làm gương cho mọi người, làm họ sợ không trốn nữa.”


Mười người được chọn ra để chịu chết.


“Tay sĩ quan đứng trước mặt tôi,” ông ta nói với hội đồng, “và giơ tay chỉ, và tôi biết tôi được chọn để chịu chết.”


“Tôi sẽ bị mất vợ tôi,” Gajowniczek kể câu nói của ông ta với tên sĩ quan, “và mấy đứa con của tôi sẽ bị mồ côi.”


Nhưng liền lúc đó vị linh mục tù nhân bước ra khỏi đám đông các người tù. Và nói:


“Tôi muốn thay chỗ cho anh này. Anh ta có vợ và một gia đình. Tôi không có ai. Tôi là một linh mục Công giáo.”


Người còn sống sót đến bây giờ nhìn vị linh mục. Luật của trại tập trung cấm họ không được nói lời nào.

Gajowniczek nói, “Ngài có một nét thể hiện thỏa mãn trên khuôn mặt, và dường như rất hài lòng vì ngài đã chọn cách làm này.”

10 người được đưa đi nơi khác, lột hết quần áo, tống ngục và để chết đói. Ngày 14 tháng 8 năm 1941, còn 4 người chưa chết, trong đó có linh mục, bị tiêm một mũi thuốc độc.

Người được cứu sống nói, “Linh mục là thánh bổn mạng của những ai thiếu thốn … là thánh bổn mạng của những ai cần trợ giúp.”




Gặp người đàn ông được Thánh Maximilian Kolbe thế mạng ở Auschwitz


14 tháng 8, 2015

Hôm nay là ngày lễ kính một vị thánh vĩ đại. Câu chuyện tử đạo của ngài rất nổi tiếng, nhưng tôi không chắc có bao nhiêu người biết chi tiết về người đàn ông đã được thánh nhân cứu sống. Nó được ghi chép trong Wikipedia:

Franciszek Gajowniczek, một người Công giáo Roma, sinh ở Strachomin gần Mińsk Mazowiecki. Ông ta sống ở Warsaw từ năm 1921, có vợ và hai con trai. Ông ta là một quân nhân chuyên nghiệp đã tham gia bao vệ Wieluń cũng như Warsaw tháng 9 năm 1939. Ông ta bị Gestapo bắt ở Zakopane. Ông ta đến Auschwitz ngày 8 tháng 9, 1940. Khi một tù nhân bị phát hiện đã bỏ trốn, hạ sĩ quan Karl Fritzsch ra lệnh cho 10 tù nhân khác phải chết bằng cách bỏ đói để bù lại. Franciszek Gajowniczek (số tù 5659) là một trong những người được chọn theo cách gọi lần lượt. Khi vị linh mục dòng Phanxico, Kolbe, nghe thấy Gajowniczek kêu khóc trong đau đớn về số phận của gia đình anh, ngài đã tự dâng mình thay cho ông ta (do đó ngài đã được phong thánh). Không ai còn nhớ chính xác câu nói của cha Kolbe, nhưng có một phiên bản ghi lại lời của ngài như sau “Tôi là một linh mục Công giáo ở Ba lan; tôi muốn thay chỗ cho người đàn ông kia, vì anh ta có vợ và con cái.” Sự thay thế được chấp nhận; sau khi tất cả các bạn cùng phòng chết, Kolbe (tù nhân 16670) bị tiêm carbon acid cho chết.

Gajowniczek bị chuyển từ Auschwitz sang trại tập trung Sachsenhausen ngày 25 tháng 10,1944. Ông ta được quân Đồng minh giải phóng, sau 5 năm, 5 tháng và 9 ngày trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Ông được đoàn tụ với vợ, Helena, nửa năm sau ở Rawa Mazowiecka. Vợ ông còn sống sót sau chiến tranh, nhưng hai con trai của ông đã chết trong cuộc oanh tạc của Soviet trong khu chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Ba lan năm 1945, trước khi ông được thả.

Gajowniczek là khách mời của Đức Giáo hoàng Phaolo VI đến Vatican, khi Maximilian Kolbe được phong chân phước tử đạo ngày 17 tháng 10, 1971. Năm 1972, tạp chí Time tường thuật có hơn 150.000 người đi hành hương đến Auschwitz để mừng lễ phong chân phước Maximilian. Một trong những người chứng đầu tiên là Gajowniczek, ông tuyên bố rằng “Tôi muốn bày tỏ lòng tri ân về món quà sự sống.” Vợ của ông, Helena, qua đời năm 1977. Gajowniczek lại trở thành khách mời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II tại Vatican một lần nữa khi ngài phong Maximilian Kolbe lên bậc hiển thánh ngày 10 tháng 10, 1982.

Năm 1994, Gajowniczek đến thăm Nhà thờ Công giáo Thánh Maximilian Kolbe ở Houston, tại đây ông nói với cha Tuyên úy thông dịch Thaddeus Horbowy rằng “cho đến khi nào ông còn hơi thở, ông buộc mình phải có trách nhiệm kể cho mọi người về hành động anh dũng của tình yêu của Thánh Maximilian Kolbe.” Gajowniczek chết ở thành phố Brzeg ngày 13 tháng 3 năm 1995 thọ 93 tuổi. Ông được chôn trong nghĩa trang một tu viện ở Niepokalanów, khoảng 53 năm sau khi sự sống của ông được cứu thoát bởi thánh Kolbe.




[Nguồn: aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 16/08/2016]



KINH TRUYỀN TIN: Lễ Đức Mẹ Lên trời

KINH TRUYỀN TIN: Lễ Đức Mẹ Lên trời

‘Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một mầu nhiệm vĩ đại liên quan đến mỗi người chúng ta. Mầu nhiệm đó liên quan đến tương lai của chúng ta.’
15 tháng 8, 2016
The Assumption of the Virgin
WIKIMEDIA COMMONS - 9wEPrPiHa60TbQ At Google Cultural Institute
Dưới đây là bản dịch bài giảng huấn của Đức Thánh Cha Phanxico trước và sau đọc kinh Truyền tin trưa nay với các tín hữu tập trung tại Quảng trường Thánh Phê-rô để dự lễ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria Hồn Xác lên trời.
***
TRƯỚ KINH TRUYỀN TIN
Anh chị em thân mến, xin chào tất cả! Xin chúc tất cả anh chị em ngày lễ Đức Mẹ Lên trời hạnh phúc!
Bài đọc trong Thánh lễ hôm nay (Lc 1:39-56)  mô tả cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và người chị họ Elizabet, nhấn mạnh rằng, “ Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. (c. 39). Hồi ấy, Mẹ Maria vội vã đi đến một thành nhỏ thuộc vùng ngoại vi của Giê-ru-sa-lem. Hôm nay, chúng ta lại chiêm ngưỡng Mẹ trên đường Mẹ về Giê-ru-sa-lem trên Thiên đàng, để được chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa Cha và dung nhan Chúa Giê-su Con của Mẹ. Rất nhiều lần trong cuộc đời nơi dương thế của Mẹ, Mẹ đã đi lên những vùng đồi núi, bước lên đến chặng đau thương cuối cùng trên đồi Can-vê, để thông phần vào Mầu nhiệm Thương khó của Đức Ki-tô. Bây giờ, chúng ta nhìn thấy Mẹ bước lên đỉnh núi của Thiên Chúa “mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12:1) — như sách Khải huyền mô tả — và chúng ta được nhìn thấy Mẹ bước qua cánh cửa về quê nước trời.
Mẹ là người đầu tiên tin Con Thiên Chúa, và Mẹ là người đầu tiên được lên Thiên đàng cả hồn và xác. Ngay từ ban đầu, Mẹ đã đón nhận Giê-su và ẵm Ngài trên tay Mẹ khi Ngài còn nhỏ, và Mẹ là người đầu tiên được đôi tay của Ngài đón nhận để được giới thiệu trong Vương quốc vĩnh hằng của Chúa Cha. Mẹ Maria, một cô gái khiêm nhường và đơn sơ của một ngôi làng bị lãng quên thuộc vùng ven xa xôi của đế quốc, vì Mẹ chấp nhận và sống theo Tin mừng, được Thiên Chúa đón nhận vào quê vĩnh hằng bên ngai tòa Chúa Con. Vì thế Thiên Chúa đã hạ bệ những kẻ quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (Lc 1:52).
Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một mầu nhiệm vĩ đại liên quan đến mỗi người chúng ta. Mầu nhiệm đó liên quan đến tương lai của chúng ta. Thực ra, Mẹ Maria là người đi trước chúng ta trên con đường tất cả chúng đi, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta gắn chặt cuộc sống của mình với Chúa Giê-su, cũng như Mẹ Maria gắn cuộc đời Mẹ với Ngài. Thánh lễ mừng trọng thể hôm nay công bố trước “những chân trời mới và một trái đất mới,” với chiến thắng vinh quang trước cái chết của Đức Ki-tô phục sinh, và đánh bại hoàn toàn Tội lỗi. Vì thế, niềm hoan hỉ của cô gái khiêm nhường miền Ga-li-lê, bật lên tiếng ca trong bài Ca ngợi khen Magnificat, trở thành bài ca của toàn nhân loại, hân hoan được nhìn thấy Thiên Chúa cúi xuống trước những người nam, người nữ, những tạo vật bé nhỏ khiêm nhường, và đón nhận họ vào nước Thiên đàng cùng với Ngài.
Thiên Chúa cúi xuống trước những con người khiêm nhường, để tôn vinh họ, như bài ca Ngợi khen Magnificat tuyên xưng. Bài ca của Mẹ Maria cũng đưa dòng suy nghĩ của chúng ta đến với những hoàn cảnh đau buồn thực tại, đặc biệt là những người phụ nữ bị chôn vùi trong gánh nặng cuộc sống và những thảm kịch bạo lực; những phụ nữ đang phải làm nô lệ cho những kẻ ngạo mạn và quyền thế; những cô gái bị buộc làm những công việc phi nhân đạo; những phụ nữ bị buộc phải đầu hàng cả về thân xác và tinh thần trước sự tham lam hám lợi của đàn ông. Nguyện xin sự khởi đầu  của một cuộc sống an bình, công bằng và yêu thương nhanh chóng đến được với họ, trong niềm mong đợi ngày họ cảm nhận được đôi vòng tay ôm ấp không phải để làm nhục họ, nhưng để an ủi họ với lòng nhân hậu và dẫn đưa họ về Nước trời. Mẹ Maria, một cô gái, một người nữ đã chịu quá nhiều đau khổ trong đời, làm chúng ta phải nghĩ đến những người phụ nữ này cũng đã chịu đựng nhiều . Chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa chính Người đưa tay dẫn họ trên con đường sự sống, cứu họ thoát khỏi những cảnh nô lệ này.
Và bây giờ chúng ta hướng lòng tín thác về Mẹ Maria, Nữ vương Thiên đàng dịu hiền, và chúng ta cùng cầu xin với Mẹ: “Xin ban cho chúng con những ngày bình an, xin canh chừng lối đi của chúng con, xin cho chúng con được nhìn thấy Con của Mẹ, ngập tràn niềm vui nước Thiên đàng” (Bài ca the Second Vespers).
[Văn bản gốc: Tiếng Ý] [Bản dịch tiếng Anh của ZENIT]

SAU KINH TRUYỀN TIN
Anh chị em thân mến,
Một lần nữa, cha xin phó thác cho Nữ vương Hòa bình, Mẹ là người chúng con đang chiêm ngắm hôm nay trong ánh vinh quang Thiên Đàng, những lo âu khắc khoải và những khổ đau của biết bao con người ở nhiều nơi trên thế giới đang là những nạn nhân vô tội của những xung đột dai dẳng. Cha hướng lòng về những người dân của Bắc Kivu, trong nước Cộng hòa Congo, mới đây bị rơi vào những cuộc tàn sát mới, những vụ mà đôi lúc bị rơi vào sự im lặng đáng hổ then, thậm chí chẳng làm chúng ta chú ý. Thật không may, những nạn nhân này là một phần của nhiều nạn nhân vô tội nằm trong số những người không có tên tuổi trong dư luận của thế giới. Nguyện xin Mẹ Maria thông ban cho mọi sự hiểu biết và khát khao hòa hợp!
Cha xin chào tất cả, những công dân Roma và những khách hành hương từ mọi quốc gia! Đặc biệt, cha xin chào các bạn trẻ từ Villadose, các tín hữu của vùng Credaro và vùngCrosara.
Cha xin chúc tất cả anh chị em hiện diện ở đây ngày lễ Mẹ Lên Trời hạnh phúc, và tất cả những người đang nghỉ hè ở nhiều nơi khác nhau, cũng như tất cả những người chưa có thể nghỉ hè, đặc biệt những người đau bệnh, người cô đơn, và những người phải bảo đảm hoạt động của những dịch vụ không thể nghỉ được cho cộng đồng trong những ngày lễ mừng này.
Cha xin cảm ơn tất cả đã đến đây, và xin đừng quên cầu nguyện cho cho. Xin chúc tất cả anh chị em bữa trưa ngon miệng và hẹn sớm gặp lại!
[Văn bản gốc: Tiếng Ý] [Bản dịch tiếng Anh của ZENIT]

[Nguồn: zenit]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 16/08/2016]