Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Mẹ Teresa ‘yêu anh em một cách trọn vẹn’

Mẹ Teresa ‘yêu anh em một cách trọn vẹn’

Cố vấn tu đức của thánh nhân, ‘Mẹ là một nhà rao giảng và là đại sứ cho tính thiêng liêng của sự sống, không bao giờ cảm thấy mệt mỏi phải biện hộ cho phẩm vị của những em bé chưa ra đời, người đau yếu và hấp hối.’

BY HANNAH BROCKHAUS/CNA/EWTN NEWS
08/31/2016
mother teresa
– L'Osservatore Romano
ROME — Mẹ Teresa không cố gắng giải quyết mọi vấn đề của thế giới: Mẹ đơn giản chỉ sống trọn vẹn cuộc đời phục vụ và yêu thương tha nhân, cầu xin Thiên Chúa chăm sóc cho những người khác, vị cố vấn tu đức của Mẹ nói.
“Người Hindu, người Hồi giáo và người Ki-tô giáo đều nhìn nơi Mẹ một mẫu gương. Mẹ nổi tiếng vì Mẹ rất chính trực, và Mẹ yêu con người một cách chân tình,” Đức ông Leo Maasburg nói với CNA.
CNA phỏng vấn Đức ông Maasburg trong trước Lễ phong thánh của Mẹ Teresa, sẽ diễn ra ở Roma ngày 4 tháng 9. Linh mục nói về triết học tu đức của Mẹ, những cách Mẹ giúp xã hội ở Ấn độ, sự quan tâm chính trị của Mẹ và “bóng tối của linh hồn” của Mẹ, và nhiều vấn đề khác.
Đức ông Maasburg, một linh mục của tổng giáo phận Vienna được tiến chức năm 1982, đã gặp Mẹ Teresa vài năm sau khi ngài trở thành linh mục, duy trì một tình bạn tốt với Mẹ đến khi Mẹ mất năm 1997. Trong nhiều năm, Đức ông Maasburg cùng tham gia với Mẹ Teresa và các chị nữ tu của Mẹ trong nhiều chuyến đi, trong đó có đến Roma, sang Ấn độ và Armenia. Ngài cũng là một nhà cố vấn tu đức của Mẹ, người thông dịch và linh mục giải tội cho Mẹ, và ngài là tác giả quyển Mẹ Teresa Calcutta: Một hình ảnh riêng biệt (Mother Teresa of Calcutta: A Personal Portrait).
Dưới đây là toàn văn phỏng vấn:
Đức ông đã trải qua thời gian khá lâu với Mẹ Teresa. Có điều gì về Mẹ vẫn còn giữ chưa được nói ra?
Có lẽ còn nhiều câu chuyện và chi tiết chưa được kể ra. Mẹ Teresa là người cố gắng hành động hơn là nói. Đồng thời Mẹ có đời sống cầu nguyện rất sâu. Tôi nghĩ đây là điều khiến Mẹ làm việc có hiệu quả. Mọi việc Mẹ làm, Mẹ chỉ cố gắng làm cho và với “tình yêu đầu tiên và duy nhất của đời Mẹ”: Chúa Giê-su. Và điều này có lẽ có liên quan đến những gì chúng ta vẫn còn phải khám phá và tìm kiếm để hiểu rõ hơn: tu đức của Mẹ Teresa. Bằng lễ phong thánh của Mẹ, Giáo hội mời gọi chúng ta tiến bước xa hơn vào trong mối quan hệ mà Mẹ đã có với Thiên Chúa. Có cả một kho triết học tu đức cần phải được khám phá khi chúng ta suy ngẫm về đời sống, việc làm và lời nói của Mẹ. Tôi cũng tin rằng quan điểm chính trị của Mẹ về xã hội và những thông điệp của Mẹ đến với giới thượng đẳng của thế giới khi nhận giải Nobel Hòa bình (receiving the Nobel Peace Prize) hay diễn văn tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc (addressing the U.N. General Assembly) chưa được chú ý xứng tầm của nó. Mẹ Teresa còn vượt ra xa hơn là một nữ tu Công giáo với một trái tim vĩ đại cho người nghèo. Mẹ là một nhà rao giảng và đại sứ cho tính thiêng liêng của sự sống, không bao giờ cảm thấy mệt mỏi phải biện hộ cho phẩm vị của những em bé chưa ra đời, người đau yếu và hấp hối.
Những chỉ trích nhắm vào Mẹ Teresa thường đề cập đến cách mẹ đẩy người ta phải chấp nhận đau khổ. Những chỉ trích này có phi lý không? Mẹ giải quyết nhiều vấn đề khác nhau ở xã hội Ấn độ như thế nào?
Mẹ Teresa có lần bị đưa vào một tình huống khó với cách nói ẩn dụ thường có: Có người hỏi Mẹ rằng không tốt hơn sao nếu dạy người nghèo câu cá thay vì cho họ cá để ăn. Mẹ đồng ý, nhưng rồi Mẹ trả lời: “Người nghèo của tôi yếu quá không đủ sức cầm cần câu nữa. Khi nào họ hồi phục ở trong các nhà của tôi, tôi sẽ gửi họ đến cho quý vị để quý vị có thể dạy họ cách câu cá.” Mặc dù Mẹ rất quan tâm đến chính trị, Mẹ không bao giờ cố gắng trở thành một chính trị gia. Mẹ chỉ cố gắng yêu mọi người một cách trọn vẹn — và cầu xin Chúa Giê-su chăm sóc cho những người khác. Mẹ giải quyết các vấn đề của xã hội Ấn độ bằng cách sống Tin mừng giữa người nghèo. Và sự đau khổ có gốc rễ từ tình trạng bần cùng không tưởng tượng nổi đã, và đang là những vấn đề u ám nhất của tiểu châu lục. Nhưng liều thuốc mà Mẹ muốn kê toa cho người ta không phải là y dược, nhưng là thuốc tinh thần, một liều thuốc: yêu thương chăm sóc vô điều kiện và nhân hậu.
Ấn độ đã thay đổi như thế nào nhờ công việc của Mẹ Teresa? Và nó vẫn có thể thay đổi theo cách nào?
Người ta gọi Mẹ Teresa là “Nữ hoàng của Ấn độ.” Điều này cho thấy họ yêu Mẹ biết bao nhiêu. Người Hindu, người Hồi giáo và người Ki-tô giáo đều nhìn nơi Mẹ một mẫu gương. Mẹ nổi tiếng vì Mẹ rất chính trực, và Mẹ yêu con người một cách chân tình. Mẫu gương của Mẹ chắc chắc sẽ giúp mọi người trong nước hiểu rằng mọi con người, bất kể tình trạng xã hội của họ, xứng đáng nhận được cách cư xử tôn trọng và có một phẩm giá từ ban đầu. Mẹ cũng rất nổi tiếng vì là một Thừa sai Bác ái và sống đức tin rộng mở. Ngày nay một số tiểu bang ở Ấn độ cho thấy khuynh hướng hạn chế sự tự do tôn giáo qua những đạo luật chống cải đạo. Một số nhóm cực đoan cố nhóm lên ngọn lửa bạo lực chống lại người Ki-tô hữu và Hồi giáo. Ấn độ có thể và nên phải là một quốc gia trong đó người dân thuộc nhiều tôn giáo khác nhau biết tôn trọng và sống hòa bình với nhau.
Mẹ Teresa cũng  trải qua “bóng tối của linh hồn,” cũng như nhiều vị thánh trước và sau Mẹ. Có thể giải thích bóng tối này như thế nào? Và trải nghiệm của Mẹ Teresa có thể dạy chúng ta cách thoát ra bóng tối này như thế nào?
Không dễ có thể giải thích được “bóng tối của linh hồn,” vì đây là một trải nghiệm thần bí. Có lúc các thánh nhân nhận được tình trạng này như một ân sủng của Thiên Chúa. Nó cho phép các vị chia sẻ trong công cuộc cứu chuộc nhân loại, đó là tình trạng bị xa cách Thiên Chúa do tội lỗi. Trải nghiệm của Mẹ Teresa sẽ không dạy cho chúng ta cách “thoát ra” khỏi bóng tối này; nó có thể giúp chúng ta biết mang lấy nó nếu chúng ta được ơn phúc vinh dự trải nghiệm nó. Tuy nhiên, chắc chắn nó không phải là một trải nghiệm dễ dàng. Trong các lá thư, Mẹ Teresa mô tả nó là sự trải nghiệm tình trạng vắng bóng Thiên Chúa. Giữ được sự trung tín trong trải nghiệm đau khổ này có một ảnh hưởng tu đức rất sâu đậm cho linh hồn.

[Nguồn: ncregister]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 01/09/2016]



Phỏng vấn dành riêng: Linh mục phụ trách án phong thánh cho Mẹ Teresa

Phỏng vấn dành riêng: Linh mục phụ trách án phong thánh cho Mẹ Teresa


Cáo thỉnh viên án phong thánh của vị nữ tu chia sẻ cái nhìn của Mẹ về một thế giới thiếu thốn sự yêu thương

Albanian Roman Catholic nun and founder of the Missionaries of Charity, Mother Teresa (1910 - 1997) at a hospice for the destitute and dying in Kolkata (Calcutta), India, 1969. (Photo by Terry Fincher/Hulton Archive/Getty Images)

Trong một quyển sách mới về những bài viết của Mẹ Teresa Calcutta, cha Brian Kolodiejchuk lấy một trang của Đức Thánh Cha Phanxico và giải thích sâu hơn ý nghĩa của từ “lòng thương xót.”
“Đức Thánh Cha Phanxico nói với chúng ta rằng ý nghĩa nguyên gốc của từ lòng thương xót trong tiếng Latinh  —misericordia— “là miseris cor dare, có nghĩa ‘trao tặng trái tim cho người khốn khổ,’ những người thiếu thốn, những người đau khổ,” cha Kolodiejchuk viết trong lời giới thiệu quyển Một Tiếng gọi Lòng thương xót: Những trái tim yêu thương, Những đôi tay phục vụ (A Call to Mercy: Hearts to Love, Hands to Serve). “Đó là những gì Chúa Giê-su đã làm: Người mở rộng trái tim của Người cho sự khốn cùng của con người.”
Có lẽ không có sự miêu tả nào có thể phù hợp hơn cho vị nữ tu sẽ được tuyên phong thánh vào Chúa nhật này bằng câu một người đã trao tặng trái tim mình cho những người khốn cùng và đáng thương. Từ trụ sở của Mẹ trong khu vực khốn khổ nhất của một thành phố ở Ấn độ, Mẹ Teresa dành trọn cuộc đời cố gắng phục vụ những nhu cầu cần thiết nhất của “người nghèo nhất trong những người nghèo” trên toàn thế giới.
Một tiếng gọi Lòng thương xót sẽ xuất hiện vào đêm trước lễ phong thánh Mẹ Teresa ngày 4 tháng 9, án phong thánh mà cha Kolodiejchuk đã phối hợp trong suốt 17 năm qua trong vị trí cáo thỉnh viên. Vị linh mục gốc Canada cũng là Bề trên của dòng các cha Thừa sai Bác ái, dòng do Mẹ Teresa thành lập kèm với dòng Nữ Thừa sai Bác ái. Cha cộng tác với Mẹ Teresa  từ năm 1977 đến khi Mẹ mất năm 1997. Quyển sách mang đến những bài viết của thánh nhân cũng như chứng tá của những người gần gũi với Mẹ Teresa.
Cha Kolodiejchuk nói chuyện với Aleteia hôm thứ Hai.
Khi biên tập quyển sách này, cha có khám phá ra điều gì mới và đáng ngạc nhiên về Mẹ Teresa?
Khi chúng tôi lượt qua tất cả các bài viết của Mẹ, thật tuyệt vời được nhắc nhớ lạ tất cả những việc Mẹ làm. Mẹ đã làm được quá nhiều trong suốt 87 năm Mẹ sống.
Một vài mẫu gương rất đặc biệt, ví dụ, khi có một xung đột giữa người Hindu và người Hồi gai1o, và Mẹ phải đi ra sân bay và Mẹ tình cờ gặp một nhóm đang đánh nhau. Hầu hết mọi người chắc sẽ nói, “Tôi phải thoát ra khỏi đây vì nó quá nguy hiểm,”nhưng Mẹ dừng lại và bước đến, và cố tạo hòa bình bằng câu nói, “Các bạn không nhận ra mình là anh em với nhau sao, thôi đừng đánh nhau nữa.” Đó là một sự can đảm vô cùng.
Nhưng hầu hết các mẫu gương trong đó, nếu anh lấy từng hành động riêng biệt, hầu hết đều là những việc mọi người có thể làm — chúng là những việc nhỏ nhặt, bình thường, như đến bệnh viện, thăm một bệnh nhân hay ôm một em bé. Có đủ mọi cách, mọi hành động chính chúng ta có thể làm được. Mẹ Teresa vẫn nói “Calcutta ở khắp nơi.” Chúng ta chả cần phải đến Calcutta để tìm người nghèo. Họ ở ngay xung quanh chúng ta trong các khu xóm, trong giáo xứ, trong cộng đoàn, và thậm chí ngay trong gia đình của chúng ta. Ai là người cần nụ cười hay một cử chỉ yêu thương nho nhỏ, một bông hoa hay đọc một bài báo (cho người liệt giường), đến thăm người đang cô đơn? Nếu chúng ta chú ý, nếu chúng ta tìm kiếm cơ hội, họ ở khắp nơi chung quanh chúng ta, Mẹ nói như vậy.
Và khi cha sử dụng từ “người nghèo,” đối với Mẹ từ đó bao hàm không chỉ nghèo về vật chất nhưng là nghèo tinh thần và cảm xúc, những người cảm thấy không được yêu.
Khi Mẹ nói theo cách đó, vâng, nó là một hàm ý rộng hơn.
Mẹ Teresa được tuyên phong thánh chỉ 19 năm sau khi qua đời. Cha có ngạc nhiên vì tiến trình phong thánh đi quá nhanh?
À, điều đó cũng rất thú vị vì người ta thường nói sau lần tuyên phong chân phước, “Sao mà lâu quá vậy?” Và tôi nói rằng, “À, khi đến đúng thời điểm cho Giáo hội thì chúng ta sẽ có một phép lạ và chúng ta sẽ có lễ tuyên phong thánh.” Và thực sự như vậy, phép lạ đã xảy ra năm 2008, nhưng tôi lại không được nghe về nó mãi đến năm 2013, và phép lạ đã được phê chuẩn năm ngoái. Như vậy, thời điểm đúng cho Giáo hội là Năm Thánh Lòng thương xót.
Can dự vào án phong thánh này cảm giác cha như thế nào?
Nó đã thực sự thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi chắc đã có thể làm việc khác trong suốt 17 năm qua. Đó là một cơ hội cho tôi để tìm hiểu thêm về Mẹ. Tôi nhớ sau khi hồ sơ positio hoàn tất [tài liệu nghiên cứu cách sống đời sống Ki-tô hữu của Mẹ Teresa], và đặc biệt ở quyển thứ nhất, trình bày cách Mẹ sống những nhân đức Ki-tô hữu và danh tiếng thánh đức của Mẹ, tôi nhớ tôi đã nghĩ về mình, “Thực ra, bây giờ mình mới hiểu biết về Mẹ Teresa nhiều hơn khi mình còn ở với Mẹ lúc Mẹ còn sống.” Vì tôi có những trải nghiệm nho nhỏ của riêng tôi và người khác có cái riêng của họ, nhưng khi anh đem chún kết nối lại với nhau, anh sẽ thấy nó vô cùng ấn tượng.
Cha biết Mẹ rất rõ. Mối quan hệ của cha có ảnh hưởng gì đến vị trí của cha là một tông đồ của Đức Ki-tô?
Chỉ nói riêng tiến trình phong thánh này thôi, tôi nhớ từ ban đầu khi suy nghĩ đến toàn bộ tiến trình, tôi tự nhủ, “Việc này sẽ diễn ra như thế nào? Tôi sẽ phải làm gì đây? Nó quá to tát. Một trách nhiệm quá lớn.”
Nhưng một trong những điều [tôi nghĩ đến câu nói] Mẹ gọi là “tinh thần cộng đoàn,” đó là ‘tín thác yêu thương, dâng hiến trọn vẹn,” thực ra là “Con đường nhỏ của Tinh thần Trẻ thơ” [của Thánh Teresa thành Lisieux], vì Thánh Teresa đã áp dụng “sự xác tín và sự từ bỏ.” Và Mẹ thì luôn thực tế, cho nên Mẹ thêm một vế thứ ba cho hai vế trước, đó là sự hân hoan — một cách thể hiện bên ngoài cho thấy bạn sống tín thác và dâng hiến như thế nào.
Vì thế khi nói về tiến trình, nếu lúc đầu tôi nhìn đến toàn bộ sự việc chắc là kinh khủng lắm và “mình sẽ phải làm việc này như thế nào, và chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình phạm một sai lầm khi toàn Giáo hội đang theo dõi mình?” Nhưng sau đó tôi nói, “Cứ mỗi lúc một bước, trong sự tín thác và dâng hiến, rồi Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi việc, rồi Đức Mẹ cũng có ở đó, và ngay cả Mẹ nữa cũng can thiệp vào, thế thì chúng ta cùng tiến bước.”
Và đó là cách chúng tôi đi đến được ngày hôm nay.
Về cuối đời, Mẹ Teresa rất nổi tiếng. Cha nghĩ Mẹ có cần điều đó không? Mẹ cảm nhận điều đó như thế nào?
Đó là một trong những chịu đựng lớn nhất, ở trong thế giới truyền thông, phải nói, phải chụp ảnh … Có lẽ anh đã nghe sự mặc cả của Mẹ với Chúa Giê-su: “Với mỗi tấm ảnh chụp, một linh hồn được ra khỏi luyện ngục.” Cho nên nó giống như một thánh giá thực sự, và vì lời khấn trọng của Mẹ năm 1942 là không từ chối Người một điều gì, dâng cho Người bất kỳ điều gì Người yêu cầu, thật vô cùng khó khăn, Mẹ đã chấp nhận như là một phần của cuộc sống, vì mục đích để mọi người biết đến người nghèo nhiều hơn.
Vì vậy những giải thưởng Mẹ nhận đều đứng tên người nghèo, để nó có thể mang đến sự chú ý nhiều hơn đối với người nghèo, một cơ hội để có thể nói về Thiên Chúa. Và đó là những lý do tại sao Mẹ sẵn sàng vượt qua tất cả. Và Mẹ biết nếu Mẹ phải trả lời một phỏng vấn hay nếu có ai đó viết một quyển sách về công việc, đó là việc giúp cho sứ mạng. Vì thế, rút cuộc tất cả vì người nghèo và vì lợi ích của người nghèo.
Cuộc sống của Mẹ nói lên điều gì với chúng ta đang sống ở Mỹ năm 2016, dường như đang phải đi qua quá nhiều rối loạn?
Trên phạm vi tinh thần và đây không phải là một phạm vi thực tế: sự khôn ngoan chính trị, Mẹ không lên tiếng, nhưng nếu trên phạm vi những nguyên tắc hay trên phạm vi những giá trị Ki-tô giáo, Mẹ sẽ nói “Người anh em của tôi, người chị em của tôi,” bất kể họ theo tôn giáo nào. Trong bộ phim Mẹ Teresa (Mother Teresa) của các soeur Petrie, có một cảnh trong suốt thời gian xung đột giữa Beirut, Li-băng, nơi đây Mẹ nghe nói có những trẻ em Hồi giáo đang thực sự đau khổ, đang đói, và Mẹ muốn đến đó để cứu các bé. Những người khuyên can Mẹ nói rằng, “Đừng, Mẹ, Mẹ không thể tới đó, đang có xung đột ở đó, đang có chiến tranh, không an toàn tí nào.” Và Mẹ nói, “Không, chúng ta phải đến đó, chúng ta phải làm gì đó. Mẹ sẽ đi cầu xin với Đức Mẹ để có ngưng bắn.”
Và rồi cảnh tiếp theo là: có cuộc ngưng bắn — ngày 15 tháng 8 (đúng lễ Đức Mẹ Lên trời).
Thế là Mẹ đi và đón những trẻ em Hồi giáo này và chăm sóc chúng. Có một bé bị chấn thương, liên tục co giật, có một soeur phải ôm giữ bé, và bé bắt đầu bình tĩnh. Sau đó, Mẹ nói chuyện với một bác sĩ, là người Do thái. Như vậy anh thấy một bác sĩ Do thái giúp một nữ tu Công giáo chăm sóc các trẻ em Hồi giáo.
Hoặc lúc Mẹ mở một nhà ở Nam Phi trong thời gian của chủ nghĩa A-pac-thai (ND: chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bạo lực). Mẹ cố tình chọn một soeur da trắng, một soeur da đen, một soeur da vàng, tức là từ Ấn độ tới, và một soeur thứ tư.
Mẹ luôn nói rằng bất cứ ai cũng là anh em, chị em của Mẹ, và trên phạm vi con người, tất cả mọi người đều có phẩm giá. Tất cả chúng ta đều là con Thiên Chúa. Và về khía cạnh đức tin, Mẹ nhìn thấy mỗi con người — tổng thống, nữ hoàng, vua chúa, thủ tướng, người nằm trên đường phố hay trong bếp ăn súp, hoặc người hấp hối trong nhà — mọi người đều là Giê-su.
Và đó là những nguyên tắc, nhãn quan đức tin mà Mẹ đi qua, và tùy vào mỗi người nắm bắt và đem ra thực hành.
[Nguồn:  aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 31/08/2016]