Thứ Năm, 20 tháng 10, 2016

Những câu truyện đầy cảm phục của 4 vị tân thánh

Những câu truyện đầy cảm phục của 4 vị tân thánh


Gặp các thánh Đức Thánh Cha Phanxico tuyên phong hôm Chúa nhật, trong đó có cậu bé 15 tuổi tử đạo vì đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô

The inspiring stories of 4 new saints

© Antoine Mekary / ALETEIA
VATICAN CITY — Hôm nay Đức Thánh Cha Phanxico đã tuyên phong bảy vị tân thánh giữa những làn sóng vỗ tay hoan hô của gần 80.000 người hành hương từ khắp thế giới họp nhau tại Quảng trường Thánh Phê-rô.
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
Trình bày trong bài giảng trước các tín hữu tại Lễ Phong thánh, Đức Thánh Cha Phanxico nói: “Các thánh là những người bước trọn vẹn vào mầu nhiệm cầu nguyện. Những người phải chiến đấu với lời cầu nguyện, là đang để cho Chúa Thánh Thần cầu nguyện và chiến đấu trong họ.”
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
Họ chiến đấu cho đến cùng, với tất cả sức lực, và họ đã chiến thắng, nhưng không phải bằng sự cố gắng của riêng họ: Thiên Chúa chiến thắng trong họ và cùng với họ,” ngài nói thêm: “Bảy chứng nhân được tôn vinh lên bậc thánh hôm nay cũng đã có một cuộc chiến đấu của đức tin và tình yêu tuyệt vời bằng lời cầu nguyện của họ. Đó là lý do tại sao các vị giữ được niềm tin kiên vững, bằng một trái tim quảng đại và kiên trì. Qua mẫu gương và sự cầu bầu của các vị, nguyện xin Thiên Chúa cũng làm cho chúng ta trở thành những người con cầu nguyện.
Dưới đây là những câu truyện đầy cảm phục của 4 vị tân thánh được tuyên phong hôm nay.
MỘT NỮ TU DÒNG CHIÊM NIỆM CA-MÊ-LÔ PHÁP
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
Elisabeth Catez (1880-1906) sinh ngày 18 tháng 7, 1880 trong một căn cứ quân sự tại Avord, gần Bourges ở Pháp, được rửa tội 4 ngày sau. Năm 1887, một thời gian ngắn sau khi gia đình chuyển sang Dijon, thân phụ của thánh nữ qua đời. Ngày 19 tháng 4, 1891, thánh nữ được Rước Lễ lần đầu: hôm đó Elisabeth bắt đầu một cuộc chiến khó khăn để “chiến thắng bản thân vì yêu,” học cách điều khiển tính ương ngạnh, dễ nổi đóa và bốc đồng của mình.
Ngày càng được kéo gần đến với Đức Ki-tô hơn, Elisabeth đã khấn đời khiết tịnh riêng năm 1894. Tin rằng mình được ơn gọi vào đời sống tu trì, thánh nữ xin thân mẫu cho phép mình vào dòng Ca-mê-lô ở Dijon. Vâng lời thân mẫu, bà đã cấm thánh nữ vào thăm tu viện, mãi đến ngày 2 tháng 8, 1901 Elisabeth mới gia nhập dòng. Là một tay dương cầm tài năng và đoạt giải, rất nhiệt tình và hân hoan trong đời sống giáo xứ và xã hội trong thành phố, thánh nữ đã trải qua thời gian trước khi bước qua cánh cổng tu viện học cách khám phá Đức Ki-tô trong mọi sự, chỉ hiến dâng con tim mình cho Ngài, cho dù thánh nữ rất bận rộn với nhiều hoạt động, tham gia tham gia trình diễn múa và dành thời gian với bạn bè.
Ngày 8 tháng 12, 1901 thánh nữ được mặc áo dòng và lấy tên Elizabeth Chúa Ba Ngôi. Trong tu viện thánh nữ lớn lên trong sự hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi Cực Thánh từ sâu thẳm trong tâm hồn. Nhìn vào Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc, thánh nữ học cách giữ gìn sự hiện hữu của Thiên Chúa hằng sống và mỗi ngày thực hiện ý định của Thiên Chúa với lòng quảng đại, khi thánh nữ chiêm ngắm “tình yêu quá vĩ đại” thể hiện nơi Đức Giê-su chịu Đóng đinh. Một thời gian ngắn sau tuyên khấn ngày 11 tháng 1 năm 1903, Soeur Elizabeth có triệu chứng ban đầu của Bệnh Addison, dẫn đến cái chết của soeur sau nhiều đau đớn. Thánh nữ chấp nhận tất cả một cách bình tĩnh và trao phó thân mình với lòng tin tuyệt đối vào lòng thương xót của Chúa, nhìn thấy căn bệnh của mình như là một cơ hội thuận tiện để noi theo vị Hôn Phu chịu Đóng Đinh của thánh nữ, khi thánh nữ khao khát được vượt qua bước vào niềm hân hoan của Chúa Ba Ngôi trong sự hiệp nhất của các thánh. Soeur Elizabeth của Chúa Ba ngôi qua đời ngày 9 tháng 11 năm 1906 ở tuổi 26.
MỘT THIẾU NIÊN TỬ ĐẠO VÌ YÊU GIÊ-SU KI-TÔ
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
José Sánchez del Río (1913-1928) sinh ngày 28 tháng 3 năm 1913 ở Sahuayo, trong Tiểu bang Michoacán, Mexico. Trong cuộc bạo động của cái được gọi là “Chiến tranh Cristero” năm 1926, các người anh của cậu gia nhập các lực lượng nổi dậy chống lại thế chế bạo lực bài Ki-tô giáo đã được thành lập ở trong nước. José cũng được một tuyển.
Công giáo phát triển ở Sahuayo và vì vậy “Cristeros” cắm gốc rễ rất sâu ở trong vùng. Các linh mục bí mật ở lại Sahuayo qua suốt thời bách hại và không bao giờ bỏ các tín hữu, bí mật dâng Lễ và trao các bí tích, đó là các việc mà cậu thiếu niên tham gia một cách rất siêng năng. Trong những năm đó, người ta thường nói đến những vị tử đạo Ki-tô hữu đầu tiên và nhiều giới trẻ muốn theo chân họ.
Trong một trận chiến ác liệt ngày 25 tháng 1 năm 1928, José bị bắt và bị đưa về thành phố nơi cậu ra đời, tại đây cậu bị nhốt tù trong một nhà thờ giáo xứ trước đó đã bị xúc phạm và bị bị bỏ đồ xú uế bởi những người theo chủ nghĩa liên bang. Có người đề nghị câu nên bỏ trốn để tránh không bị kế án tử hình, nhưng cậu từ chối.
Khi trong tù, với cố gắng bắt José từ bỏ đức tin để cứu mình, cậu đã bị tra tấn và bị bắt phải chứng kiến một thiếu niên khác bị treo cổ, thiếu niên này đã cùng bị nhốt với cậu. Lòng bàn chân của cậu bị lột da, José bị bắt phải đi bộ đến nghĩa trang, tại đây cậu bị bắt đứng trước ngôi mộ đã chuẩn bị sẵn cho cậu, và sẽ bị bắn, nhưng chưa bắn ngay, cậu lại được hỏi có chịu bỏ đức tin không. Nhưng José, với mọi vết thương đã mang trên người, cậu la lớn lên: “Vạn tuế Đức Ki-tô Vua! Vạn tuế Đức Bà Guadalupe!” Cuối cùng cậu bị bắn và bị hành quyết. Đó là ngày 10 tháng 2 năm 1928, cậu gần tròn 15 tuổi. Ba ngày trước đó cậu viết thư gửi cho mẹ: “Tín thác vào ý định của Thiên Chúa. Con chết trong hạnh phúc vì con sẽ chết bên cạnh Thiên Chúa.”
Năm 2005, Đức Giáo hoàng Benedict XVI nâng José lên hàng chân phước.
MỘT LINH MỤC CỦA NGƯỜI NGHÈO
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
José Gabriele del Rosario Brochero (1840-1914), cũng được gọi là “linh mục của vùng Gaucho,” sinh tại Santa Rosa de Río Primero (Córdoba, Argentina) ngày 16 tháng 3 năm 1840, là con thứ tư trong gia đình 10 người con, sinh trong một gia đình Ki-tô hữu nhiệt thành. Ngày 5 tháng 3, 1856 ngài gia nhập chủng viện Đức Bà Loreto College và ngày 4 tháng 11 năm 1866 được tiến chức linh mục. Trong những năm đầu của đời linh mục, cha được bổ nhiệm hổ trợ mục vụ tại nhà thờ chánh tòa Córdoba, cha phục vụ tại đây trong suốt thời kỳ bệnh dịch tả tấn công vào thành phố.
Sau khi hoàn tất bằng tiến sĩ triết tại Đại học Córdoba, Cha Brochero được bổ nhiệm làm Trưởng khoa Học vụ trong chủng viện chính. Năm 1869 cha được trao trọng trách về chăm sóc mục vụ tại khu vực rộng lớn San Alberto ở Córdoba, nơi đây không có đường đi lại hay trường học, và chỉ tìm được một vài cư dân rải rác dọc theo dãy núi Sierra Grande, họ sống trong tình trạng nghèo đói về đạo đức và vật chất.
Tuy nhiên, cha Brochero không nản lòng, và từ lúc đó trở đi cha tận hiến suốt đời cho việc rao giảng Tin mừng, vào giáo dục và hỗ trợ người dân tại đây, đặc biệt những người nghèo nhất và bị gạt bỏ ra bên lề xã hội. Cha cũng xây các nhà thờ, trường học, đường xá và tìm cách mở các trạm bưu điện và ngân hàng, cũng như nối dài đường xe lửa. Qua việc áp dụng Linh đạo Tâm linh của Thánh I-nhã, cha đã đưa nhiều người trở lại. Năm 1877 cha mở một nhà tĩnh tâm chào đón trên 40 ngàn người.
Không mệt mỏi tận hiến cho công tác mục vụ, năm 1908 cha Brochero bị buộc phải rời khỏi giáo xứ vì nhiễm bệnh phong cùi khi đến thăm người bệnh bị chứng bệnh này. Sau đó cha sống nhiều năm tại thành phố nơi sinh với chị gái của cha. Tuy nhiên, vì những yêu cầu khăng khăng của các tính hữu tại giáo xứ cũ của cha, cha đã trở lại nhà của mình ở Villa del Transito (Córdoba), tại đây, cha bị mù, và qua đời vì bệnh phong cùi ngày 26 tháng 01 năm 1914.
Ngày 14 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxico nâng Cha Brochero lên hàng chân phước.
MỘT LINH MỤC CỦA THÁNH THỂ
© Antoine Mekary / ALETEIA
© Antoine Mekary / ALETEIA
Cha Alfonso Maria Fusco (1839-1910), một linh mục địa phận và là nhà sáng lập Dòng các Nữ tu Thánh Gioan Tẩy giả (the Baptistines), sinh ngày 23 tháng 03 năm 1839 trong một gia đình đạo đức tại thị trấn Angri (Tỉnh Salerno), trong Giáo phận Nocera dei Pagani.
Đời tận hiến thừa sai của cha vững vàng trong bối cảnh lịch sử của nửa sau thế kỷ 19. Miền Nam Ý trải qua những thay đổi nhanh chóng do trật tự chính trị mới theo sau sự thống nhất đất nước.
Được tiến chức linh mục ngày 29 tháng 05, 1863, Cha Fusco cống hiến đời mình cho giáo dục và chăm sóc trẻ em sống tràn trên các con đường ở Angri; ngài cho các em một lòng đạo đức nghiêm túc, sự huấn luyện văn hóa và chuyên môn, để các em có thể trở thành những Ki-tô hữu đích thực và những người chuyên môn có kỹ năng, có khả năng đóng góp cho xã hội. Ngài là một người có suy nghĩ đi trước, ngài cũng hiểu rõ sự quan trọng của giáo dục cho phụ nữ, trong một xã hội không công nhận phẩm giá của họ.
Cha Fusco thi hành thừa tác vụ linh mục tại Giáo hội địa phương bằng sự chuyên cần và nhiệt huyết. Ngài tận hiến cho việc giải tội, rao giảng và dạy giáo lý và đời sống phụng vụ cho giới trẻ, cũng như các sứ vụ tại vùng quê. Ngài rất kiên nhẫn, khiêm nhường và vâng nghe theo thánh ý Chúa, điều mà ngài luôn trìu mến ôm lấy ngay cả trong những lúc khó khăn. Trung tâm của cuộc đời và sứ mạng của cha là Thánh Thể. Trong Phép Thánh Thể cha tìm thấy sức mạnh và niềm vui. Cha đã đặt tình yêu của người làm con nơi Mẹ Maria, Mẹ Sầu Bi, nơi Mẹ cha tin tưởng tín thác mọi nhu cầu của mình.
Ngày 26 tháng 09, 1878, đáp lại tiếng gọi mạnh mẽ từ nội tâm và phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, cha thành lập Dòng các Nữ tu Thánh Gioan Tẩy giả để rao giảng, giáo dục và chăm sóc trẻ em và giới trẻ thuộc diện nghèo, thiếu thốn và có nhiều mối nguy hiểm.
Cha Fusco qua đời trong thanh thản tại Angri ngày 6 tháng 2, 1910, để lại nhiều tiếng vang về tính thánh thiện.
Ngày 7 tháng 10, 2001, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II tôn phong cha lên bậc chân phước.

Diane Montagna

Diane Montagna là Phóng viên của Aleteia phiên bản tiếng Anh tại Roma.

[Nguồn:  aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 18/10/2016]



TRIỀU YẾT CHUNG: Cho người đói ăn, cho người khát uống

TRIỀU YẾT CHUNG: Cho người đói ăn, cho người khát uống

‘Sự nghèo đói về lý thuyết không thách thức chúng ta, nhưng nó làm chúng ta phải suy nghĩ, nó làm chúng ta phải kêu lên tiếng than, nhưng khi chúng ta nhìn thấy cảnh nghèo đói trực tiếp nơi một người đàn ông, một người phụ nữ, một đứa trẻ, nó thách thức chúng ta!’
19 tháng 10, 2016
pope francis

© PHOTO.VA - OSSERVATORE ROMANO
Dưới đây là bản dịch của ZENIT về bài huấn giáo của Đức Thánh Cha Phanxico trong buổi triều yết sáng nay tại Quảng trường Thánh Phê-rô.
__
Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em!
Kết quả của điều được gọi là “sự sung túc” dẫn con người co cụm vào trong bản thân của họ, làm cho họ trở nên vô tình trước những nhu cầu của người khác. Người ta làm mọi thứ để lừa gạt họ, đưa ra những mẫu cuộc sống phù du, rồi sẽ biến mất trong vài năm, xem cuộc sống của chúng ta như một mốt thời trang để chạy theo và thay đổi mỗi mùa. Nó không phải như thế. Thực tế phải được chấp nhận và đương đầu với đúng hiện thực của nó, và nó thường bắt chúng ta gặp phải những hoàn cảnh của những nhu cầu bức thiết. Chính vì lý do này mà tiếng kêu của người đói và người khát được tìm thấy trong những mối phúc của lòng thương xót: cho người đói ăn — ngày nay thì có quá nhiều — và cho người khát uống. Đã bao nhiêu lần những phương tiện truyền thông thông báo cho chúng ta biết về những số dân đang chịu đựng cảnh thiếu lương thực và nước uống, với những hậu quả đen tối, đặc biệt cho trẻ em?
Trước một số bản tin nào đó và những hình ảnh chỗ này chỗ kia, công luận cảm thấy xúc động và liên tiếp nhau các chiến dịch cứu trợ được đưa ra để khơi dậy tình đoàn kết. Những đóng góp là sự quảng đại và vì thế, chúng ta có thể góp phần vào để làm giảm bớt những đau khổ của nhiều người. Hình thức bác ái này là quan trọng, nhưng, có lẽ nó không có chúng ta góp mặt trực tiếp trong đó. Thay vì vậy, nếu chúng ta đi trên đường và tình cờ gặp một người thiếu thốn, hay một người nghèo đến gõ cửa nhà chúng ta, nó lại rất khác, vì chúng ta không còn đứng trước mặt một tấm ảnh nữa nhưng chính chúng ta tham dự vào đó. Không còn khoảng cách giữa tôi và người đó, và tôi cảm thấy bị thách thức. Sự nghèo đói về lý thuyết không thách thức chúng ta, nhưng nó làm chúng ta phải suy nghĩ, nó làm chúng ta phải kêu lên tiếng than, nhưng khi chúng ta nhìn thấy cảnh nghèo đói trực tiếp nơi một người đàn ông, một người phụ nữ, một đứa trẻ, nó thách thức chúng ta! Và do vậy chúng ta thường có thói quen lảng tránh những người thiếu thốn, thói quen không đến gần họ, bóp méo thực tại của người thiếu thốn bằng những thói quen lảng tránh chúng ta khỏi nó. Khi tôi tình cờ gặp người đó, sẽ không còn khoảng cách giữa tôi và người nghèo. Trong những tình huống như vậy, thái độ phản ứng của tôi như thế nào? Tôi có quay mặt đi và bước qua? Hay tôi dừng lại nói chuyện với người đó và quan tâm đến tình trạng của họ? Và nếu anh chị em làm việc này, sẽ chẳng thiếu những người nói: “Đúng là điên, tại sao anh ta lại đi nói chuyện với một kẻ nghèo như vậy!” Tôi có tìm ra một cách nào đó để đón tiếp người ấy không cách này thì cách khác hay tôi cố chạy xa khỏi anh ta thật nhanh? Nhưng có thể người đó chỉ đang cầu xin những gì cần thiết: có miếng gì đó để ăn và để uống. Chúng ta hãy suy tư một lát: Bao nhiêu lần chúng ta đọc kinh “Lạy Cha,” tuy nhiên chúng ta lại không thực sự chú ý đến những lời: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày.”
Một câu Thánh vịnh trong Kinh thánh nói rằng Thiên Chúa là người “ban lương thực cho chúng sinh” (136:25). Cảm giác của cái đói là vô cùng khổ sở. Nếu ai đã sống qua những giai đoạn chiến tranh thì biết. Tuy nhiên thực trạng này lại cứ lặp đi lặp lại hàng ngày và nó tồn tại ngay bên cạnh những sự thừa mứa và lãng phí. Những lời của Thánh Tông đồ Gia-cô-bê vẫn tồn tại mãi với thời gian: ‘Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết,” (2:14-17) vì nó không có khả năng làm điều thiện, làm việc bác ái, hay yêu thương. Luôn luôn có ai đó đang đói và khát và đang cần đến tôi. Tôi không thể ủy thác điều đó cho người khác. Người nghèo này đang cần tôi, cần sự giúp đỡ của tôi, cần lời nói của tôi, cần sự cam kết của tôi. Tất cả chúng ta đều cần can dự vào việc đó.
Một giáo huấn nữa trong trang Tin mừng trong đó Chúa Giê-su, khi nhìn thấy nhiều người đã đi theo ngài suốt nhiều giờ, ngài hỏi các tông đồ: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6:5). Và các tông đồ trả lời: “Không thể nào được, tốt hơn là cho họ giải tán …” Nhưng Chúa Giê-su bảo các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6:37). Ngài bảo các ông đưa cho ngài vài cái bánh và mấy con cá, Ngài ban phép lành, bẻ ra và bảo các ông phân phát cho tất cả mọi người. Đây là một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Nó nói cho chúng ta biết rằng với một chút chúng ta có, nếu chúng ta phó thác nó vào bàn tay của Chúa Giê-su và chia sẻ nó với niềm tin, sẽ trở thành số nhiều vô vàn.
Trong Tông huấn Caritas in Veritate, Đức Giáo hoàng Benedict XVI khẳng định: “Cho người đó ăn là một mệnh lệnh đạo đức cho Giáo hội hoàn vũ … Quyền có lương thực, quyền có nước uống, cũng có một vị trí quan trọng để theo đuổi như những quyền khác. Vì thế điều cần thiết là phải cấy được ý thức lương tâm nơi mọi người biết xem lương thực và sử dụng nước uống là quyền toàn cầu của mọi người, không có sự khác biệt hay phân biệt đối xử [65]” (n. 27). Chúng ta đừng quên lời của Chúa Giê-su: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6:35) và “Ai khát, hãy đến với tôi” (Ga 7:37). Những lời này là một sự khơi gợi cho tất cả chúng ta là những người tin theo, một sự khơi gợi để nhận ra rằng mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa thông qua việc cho người đói ăn và cho người khát uống, một Thiên Chúa được tỏ lộ nơi Đức Giê-su dung nhan lòng thương xót của Người.
[Văn bản gốc: tiếng Ý] [Bản dịch tiếng Anh của ZENIT]

Lời chào tiếng Ý
Một lời chào nồng hậu xin gửi đến những anh chị em hành hương nói tiếng Ý. Cha xin hân hoan chào đón các tín hữu của Giáo phận Caltagirone, cùng với Đức Giám mục, Đức ôngCalogero Peri, nhân dịp kỷ niệm 200 năm thành lập; những anh chị em lãnh bí tích Thêm sức của Giáo phận Faenza-Modigliana, đi cùng đoàn có Đức ông Mario Toso; các tham dự viên Hội nghị được tổ chức bởi Đại học Thánh giá; giới trẻ của Hội Hành động Công giáo Brindisi-Ostuni và những tín hữu vùng Mistretta.
Cha chào mừng chuyến hành hương của các Nữ tu Dòng Thánh Gioan Tẩy giả, họp nhau tại đây nhân dịp lễ Tuyên phong Thánh Alphonsus Maria Fusco, và cha hy vọng rằng ân tứ của nhà sáng lập cũng lan tỏa ra trong xã hội hôm nay. Cha xin chào các nhân viên của Học viện Modena; Quỹ Trung tâm Sáng tạo Quốc gia; Hiệp hội Những người Khuyết tật và các tham dự viên Kỳ họp Phụ nữ Thứ Hai, Vùng Trung đông và Địa Trung Hải.
Cuối cùng, cha gửi tới các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi uyên ương mới. Phụng vụ hôm nay kính nhớ Thánh Phaolo Thánh Giá, linh mục sáng lập Dòng Khổ nạn: các bạn trẻ thân yêu, đặc biệt các bạn trẻ tham gia Đại hội Ngoại giao, nguyện xin sự suy ngẫm Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su dạy cho chúng con sự vĩ đại của tình yêu của Người cho chúng ta; anh chị em bệnh nhân yêu quý, hãy vác thánh giá trong sự hiệp nhất với Đức Ki-tô để có bình an trong những cơn thử thách; và chào các con, những đôi tân hôn mới, hãy dành thời gian để cầu nguyện, để cho đời sống hôn nhân là một hành trình nên sự hoàn thiện của người Ki-tô hữu.
[Văn bản gốc: Tiếng Ý] [Bản dịch tiếng Anh của ZENIT]

pope francis
pope francis
pope francis
pope francis
pope francis
pope francis
pope francis
pope francis




[Nguồn:  zenit]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 20/10/2016]