Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017

TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’

TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’

‘Thần Khí giúp chúng ta nhìn vượt ra ngoài những hiện tượng tiêu cực của hiện tại và đã tỏ lộ cho chúng ta trời và đất mới mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho nhân loại’
22 tháng Hai, 2017
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
PHOTO.VA - OSSERVATORE ROMANO
Buổi Tiếp Kiến Chung sáng nay được tổ chức lúc 9:30 sáng trong Quảng trường Thánh Phê-rô, lần đầu tiên của năm nay, Đức Thánh Cha Phanxico gặp gỡ các nhóm người hành hương và tín hữu từ nước Ý và khắp nơi trên thế giới.
Tiếp tục với loạt giáo lý về chủ đề sự cậy trông của người Ki-tô hữu, trong bài huấn dụ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha tập trung suy tư vào chủ đề: “Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi” (x. Rm 8:19-27).
Sau khi tóm kết bài giáo lý bằng nhiều ngôn ngữ, Đức Thánh Cha gửi lời chào đặc biệt đến các nhóm tín hữu có mặt. Sau đó ngài đưa ra lời thỉnh cầu cho tình hình ảm đạm ở Nam Sudan.
Buổi Tiếp Kiến Chung kết thúc bằng bài hát Kinh Lạy Cha và Phép Lành Tòa Thánh.
Dưới đây là bản dịch (tiếng Anh) của ENIT huấn dụ của Đức Thánh Cha:
* * *
Bài giảng Giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em!
Chúng ta thường bị cám dỗ bởi suy nghĩ rằng Tạo vật là tài sản của chúng ta, một sự sở hữu mà chúng ta có thể bóc lột tùy thích và chúng ta chẳng phải bồi hoàn lại cho ai. Ngược lại, trong trích đoạn Thư gửi Tín hữu Roma (8:19-27), mà chúng ta vừa nghe một phần, Thánh Tông đồ Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng Tạo vật là một quà tặng tuyệt vời mà Thiên Chúa trao vào đôi tay của chúng ta, để chúng ta có thể đi vào mối tương quan với Người và nhận ra dấu chỉ của chương trình yêu thương của Người, và chúng ta được kêu gọi để cộng tác trong chương trình của Người, từng ngày từng ngày.
Tuy nhiên, khi con người để mình bị tóm lấy bởi tính tự cao tự đại, cuối cùng họ sẽ phá hủy ngay cả những điều tuyệt mỹ nhất được trao tặng cho họ. Và điều đó cũng đã và đang xảy ra với Tạo vật. Chúng ta hãy nghĩ đến nguồn nước. Nước là một tạo vật rất đẹp và vô cùng quan trọng; nước mang đến sự sống cho chúng ta, nó giúp chúng ta trong mọi việc, nhưng bóc lột nước khoáng là làm ô nhiễm, Tạo vật bị nhiễm bẩn và bị tàn phá. Đây mới chỉ là một ví dụ. Còn rất nhiều ví dụ khác. Với những kinh nghiệm thảm kịch của tội lỗi, sự hiệp nhất với Thiên Chúa bị phá vỡ, chúng ta đã phá vỡ mối dây hiệp nhất ban đầu với tất cả mọi sự xung quanh chúng ta và dẫn đến kết quả cuối cùng là chúng ta hủy hoại Tạo vật, bắt nó làm nô lệ, là đích ngắm cho thói hư của chúng ta. Và thật không may, hậu quả của tất cả những điều này diễn ra ngay trước mắt chúng ta mỗi ngày. Khi con người phá vỡ sự kết hiệp với Thiên Chúa, nó đánh mất nét đẹp nguyên thủy của nó và dẫn đến kết quả làm xấu xí mọi thứ xung quanh nó; và nơi mà mọi thứ từ ban đầu là dấu chỉ nhắc về Người Cha-Đấng Tạo Dựng và về tình yêu vô biên của Người, bây giờ mang lấy dấu hiệu buồn thảm và hoang tàn của lòng kiêu căng và tham lam của con người. Lòng kiêu căng của con người, bóc lột Tạo vật, tàn phá tất cả.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không để chúng ta cô đơn và, ngay cả trong bức tranh hoang tàn này, Người đưa ra cho chúng ta một viễn cảnh giải thoát mới, ơn cứu độ cho thế giới. Đó là điều Thánh Phao-lô làm rõ trong sự vui mừng, mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng rên xiết của toàn thể Tạo vật. Quả thật, nếu chúng ta chú ý, mọi thứ xung quanh chúng ta đang rên xiết: chính Tạo vật đang rên xiết, chúng ta nhân loại đang rên xiết và Thần Khí rên xiết trong chúng ta, trong tâm hồn chúng ta. Bây giờ, những tiếng rên xiết này không còn là lời than van khô cằn, chán nản nữa nhưng – như Thánh Tông đồ nói rõ – chúng là những tiếng rên xiết của một người trở dạ sinh con; chúng là những tiếng rên xiết của người chịu đau đớn, nhưng biết rằng một mầm sống mới đang chuẩn bị đón ánh dương. Và trường hợp của chúng ta hôm nay đúng như vậy. Chúng ta vẫn đang phải đối mặt với những hậu quả của tội lỗi của chúng ta và mọi thứ xung quanh chúng ta vẫn mang lấy dấu hiệu của sự nhọc nhằn của chúng ta, những thất bại, những sự đóng cửa lòng của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cùng lúc lại biết rằng Thiên Chúa đã cứu thoát chúng ta và chúng ta đã được tặng ban ơn giải thoát để chúng ta chiêm ngắm và để mừng vui trong chính chúng ta và cùng hòa chung với những dấu chỉ của sự Phục sinh, của ngày Phục sinh bao quanh chúng ta, những dấu chỉ mang đến một Tạo vật mới.
Đây là ý nghĩa của lòng cậy trông của chúng ta. Một người Ki-tô hữu không sống ngoài thế giới; người Ki-tô hữu có thể nhận ra những dấu chỉ của sự ác, của sự kiêu ngạo và của tội lỗi ngay trong đời sống và trong những gì xảy ra xung quanh. Người Ki-tô hữu hỗ trợ những ai chịu đau khổ, những ai khóc than, những ai bị gạt ra bên lề xã hội, những ai cảm thấy tuyệt vọng … Nhưng đồng thời, người Ki-tô hữu biết đọc mọi việc bằng đôi mắt của ngày Phục sinh, bằng đôi mắt của Đức Ki-tô Sống lại. Và vì vậy người Ki-tô hữu biết rằng chúng ta đang sống trong một thời gian mong chờ, một thời gian ngóng trông vượt ra ngoài hiện tại, thời gian của sự viên mãn. Trong sự cậy trông chúng ta biết rằng Thiên Chúa, với lòng thương xót của Người, muốn chữa lành những tâm hồn bị thương tổn và bị làm nhục, và tất cả những gì mà con người đã làm méo mó do sự bất kính của họ, và rồi Người sẽ tái tạo một thế giới mới và một nhân loại mới, cuối cùng được hòa giải trong tình yêu của Người.
Không biết bao nhiêu lần chúng ta, những người Ki-tô hữu bị cám dỗ bởi sự ngã lòng, bởi tính yếm thế. Đôi khi chúng ta buông mình rơi vào những lời than van vô ích hoặc chúng ta giữ im lặng không thốt lên lời, và chúng ta thậm chí không biết phải cầu xin điều gì, hy vọng điều gì … Tuy nhiên, một lần nữa Thánh Thần đến và trợ giúp chúng ta, thổi hơi cho sự cậy trông của chúng ta, Người giữ thật sống động những tiếng rên xiết và mong chờ của tâm hồn chúng ta. Thần Khí giúp chúng ta nhìn vượt ra ngoài những hiện tượng tiêu cực của hiện tại và đã tỏ lộ cho chúng ta trời và đất mới mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho nhân loại.
[Văn bản gốc: tiếng Ý]  [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester]


Tiếng Ý
Xin gửi lời chào đón nồng hậu đến những tín hữu nói tiếng Ý. Tôi rất vui được đón tiếp các Thầy Phó tế của giáo phận Milan và của Dòng Mary, cũng như phái đoàn của “Ngọn đuốc Hòa bình của thánh Biển Đức,” cùng với Đức Tổng Giám mục của giáo phận Spoleto-Norcia, là Đức ông Renato Boccardo, Đức Viện phụ Dom Donato Ogliari của tu viện Montecassino, và Đức Viện phụ Dom Mauro Meacci của tu viện Subiaco, tôi mời gọi mỗi vị hãy trở nên một người thúc đẩy cho văn hóa hòa bình trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống.
Tôi xin chào ông Thị trưởng và phái đoàn của thành phố Farindola, một tháng trước đã bị trận tuyết lở phá hủy một khách sạn, gây ra nhiều nạn nhân. Cha xin chào dòng Royal Arch-Confraternity thuộc vùng Piedmonte Matese với Đức Giám mục giáo phận Alife-Caiazzo, là Đức ông Valentino Di Cerbo; những tham dự viên trong buổi diễu hành chống sự phỉ báng với Đức Giám mục giáo phận Palestrina, là Đức ông Domenico Sigalini và các thành viên của đội Tác Chiến Hải quân Sophia, mục tiêu phục vụ ngăn ngừa những thảm kịch của con người trong biển Địa Trung Hải. Tôi xin chào các thành viên của Ngân hàng “Giuseppe Toniolo” thuộc Tổ chức Tín dụng của thành phố Genzano của Rome, Hiệp hội La Stanza Accanto và các nghệ sĩ của đội xiếc Rony Rollers, xin cảm ơn màn biểu diễn của anh chị em. Họ tạo ra cái đẹp! Và cái đẹp dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Đó là cách đến với Thiên Chúa. Hãy tiếp tục tạo ra cái đẹp! Hãy cứ tiếp tục, vì nó làm tất cả chúng ta vui. Xin cảm ơn anh chị em!
Cha gửi lời chào đến các bạn trẻ, những anh chị em bệnh nhân và các đôi uyên ương mới. Hôm nay chúng ta mừng lễ Tông Tòa Thánh Phê-rô, một ngày hiệp nhất đặc biệt giữa các tín hữu và Người Kế nhiệm của Thánh Phê-rô và Tòa Thánh. Các bạn trẻ thân mến, cha khuyến khích chúng con hãy dâng lời cầu nguyện nhiều hơn cho sứ vụ của Thánh Phê-rô của cha; anh chị em bệnh nhân thân yêu, cha cảm ơn anh chị em vì chứng tá của cuộc sống được thể hiện trong sự đau khổ để xin cho sự bồi dưỡng tâm linh của cộng đoàn hội thánh; và các đôi uyên ương mới thân yêu, hãy xây dựng gia đình của chúng con trên cùng một tình yêu ràng buộc Chúa Giê-su với Giáo hội của Ngài.
[Văn bản gốc: tiếng Ý]  [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester]


Thỉnh cầu của Đức Thánh Cha
Thật đáng lo ngại khi tin tức đau thương đến với chúng ta về những người tử đạo ở Nam Sudan, nơi bị trói chặt vào sự xung đột của huynh đệ tương tàn, nơi mà sự khủng hoảng lương thực thảm khốc gây đau thương cho vùng Sừng Châu Phi và gây ra hàng triệu cái chết vì đói, trong đó có rất nhiều trẻ em. Ngay lúc này đây, hơn bao giờ hết sự cam kết của tất cả các bên là vô cùng cần thiết không phải là chặn đứng một tuyên bố nhưng là sự cứu trợ lương thực cụ thể và tạo điều kiện để nó có thể đến được với những người dân đau khổ. Nguyện xin Thiên Chúa cứu giúp những người anh em này của chúng ta và tất cả những người đang làm việc để giúp đỡ họ.
[Văn bản gốc: tiếng Ý]  [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester]


[Nguồn: zenit]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 23/02/2017]
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’
TIẾP KIẾN CHUNG: ‘Bằng sự cậy trông này, chúng ta được cứu rỗi’

Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế

Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế

‘Những người phải chạy trốn những xung đột và bách hại khủng khiếp, thường vướng vào bẫy gọng kìm của các tổ chức tội phạm là các tổ chức bất chấp đạo lý, chúng ta cần phải mở ra những kênh nhân đạo an toàn và có thể tiếp cận được’
21 tháng Hai, 2017
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
CTV Screenshot
Dưới đây là bản dịch (tiếng Anh) do Vatican cung cấp bài diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxico trước các tham dự viên của một Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế diễn ra tại Roma, ngài đã đón tiếp họ sáng nay trong Vatican.
Được tổ chức bởi Bộ mới, Bộ Thúc Đẩy Phát triển Con người Toàn diện của Vatican cùng hợp tác với Mạng lưới Di trú Quốc tế Scalabrini (Scalabrini International Migration Network), diễn đàn hai ngày nhằm mục tiêu thúc đẩy đối thoại về những nguyên nhân cội rễ của di cư và soạn thảo tỉ mỉ và đề nghị những giải pháp tốt nhất cho sự tiếp cận đạo đức trong việc quản lý di cư quốc tế, cũng như sự hội nhập của người nhập cư trong các cộng đồng đón nhận, và tạo ảnh hưởng cụ thể cho những chính sách di trú và cách thực hành:
* * *
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Kính thưa quý vị,
Tôi xin gửi những lời chào thân ái, cùng với sự đánh giá cao công việc vô cùng giá trị của quý vị. Tôi xin cảm ơn Đức Tổng Giám mục Tomasi về những lời tốt đẹp của ngài, cũng như Tiến sĩ Pöttering về bài diễn văn của ông. Tôi cũng rất tri ân 3 chứng từ phản ánh một cách cụ thể chủ đề của Diễn đàn này: “Hội nhập và Phát triển: từ phản ứng đến hành động.” Trong thực tế, không thể xem những thách đố hiện tại của những phong trào di cư hiện nay và của việc thúc đẩy hòa bình, mà không đưa vào cụm từ “phát triển và hội nhập”: vì lý do này tôi đã có ý muốn thiết lập Bộ Thúc đẩy Phát triển Con người Toàn diện, với một Phòng đặc biệt chuyên về người di cư, người tị nạn và các nạn nhân của tình trạng buôn người.
Di cư, theo nhiều hình thức khác nhau, không phải là một hiện tượng mới trong lịch sử của nhân loại. Nó để lại dấu ấn trong mọi thời đại, thúc đẩy sự gặp gỡ giữa các dân tộc và sự khai sinh những nền văn minh mới. Về bản chất của nó, di cư là cách bày tỏ sự khát khao hạnh phúc vốn có phù hợp với mỗi con người, một sự hạnh phúc được quyền tìm kiếm và theo đuổi. Với chúng ta là những người Ki-tô hữu, đời sống mọi con người đều là một hành trình hướng đến quê hương thiên quốc.
Khởi đầu của thiên niên kỷ thứ ba này được thể hiện đặc trưng bằng các phong trào di cư, mà theo các thuật ngữ gốc là sự vượt qua và điểm đến, nó có ở hầu như mọi miền của thế giới. Thật không may, đa số các trường hợp của phong trào này đều bị bắt buộc, do xung đột, thảm họa thiên nhiên, bách hại, biến đổi khí hậu, bạo lực, nghèo đói cùng cực và những điều kiện sống không còn tình người: “Con số tuyệt đối những người di cư từ châu lục này  sang châu lục khác, hoặc di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong đất nước và vùng địa lý của họ, là rất đáng chú ý. Những phong trào di cư hiện nay thể hiện lớn nhất là các cá nhân, nếu không nói là các dân tộc, trong lịch sử (Thông điệp Ngày Quốc tế Người Di cư và Tị nạn, 5 tháng Tám 2013).
Trước bức tranh toàn cảnh phức tạp này, tôi cảm thấy cần phải bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến tình trạng bị cưỡng bức của những phong trào di cư hiện nay, nó làm tăng những thách thức cho cộng đồng chính trị, cho xã hội dân sự và cho Giáo hội, và nó làm bùng lên tính cấp bách cần một thái độ đáp trả có sự hợp tác và có hiệu quả cho những thách thức này.
Thái độ đáp lời chung của chúng ta có thể được trình bày bằng bốn động từ sau: chào đón, bảo vệ, thăng tiến hội nhập.
Chào đón. “Chối bỏ là một thái độ tất cả chúng ta đều có; nó làm chúng ta không nhìn nhận tha nhân như người anh chị em của chúng ta đáng được đón nhận, nhưng không đáng quan tâm, là một đối thủ, hoặc là một người phải cúi mình xuống trước các ý định của chúng ta” (Diễn từ trước Ngoại Giao đoàn, 12 tháng Một 2015). Đối mặt với sự chối bỏ này, có nguồn gốc từ bản chất xem mình là trung tâm và được cường điệu lên bằng lối khoa trương theo chủ nghĩa dân túy, điều cần phải có là một sự thay đổi thái độ, để vượt qua được tính thờ ơ và để chống lại với những sợ hãi bằng việc tiến đến quảng đại chào đón những người đang gõ cửa nhà chúng ta. Những người phải chạy trốn những xung đột và bách hại khủng khiếp, thường vướng vào bẫy gọng kìm của các tổ chức tội phạm là các tổ chức bất chấp đạo lý, chúng ta cần phải mở ra những kênh nhân đạo an toàn và có thể tiếp cận được. Một sự chào đón đầy trách nhiệm và tôn trọng phẩm giá của anh chị em chúng ta bắt đầu từ cách cung cấp cho họ chỗ ở xứng đáng và phù hợp. Việc tập trung đông đảo những người đi tìm chỗ nương thân và những người tị nạn vào một nơi không cho thấy những kết quả khả quan. Thay vì vậy sự tập trung này lại tạo ra những tình hình bấp bênh và khó khăn mới. Có thêm nhiều chương trình chào đón mở rộng mới, là sáng kiến của nhiều nơi, nhắm đến thăng tiến sự gặp gỡ con người và cho phép chất lượng phục vụ tốt hơn và bảo đảm sự thành công gia tăng.
Bảo vệ. Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giáo hoàng Benedict, làm nổi bật sự thật rằng điều kiện di cư thường làm con người trở nên mong manh hơn trước sự bóc lột, ngược đãi và bạo lực (x. Benedict XVI, Thông điệp Ngày Quốc tế Người Di cư và Tị nạn, 18 tháng Mười 2015). Chúng ta đang nói về hàng triệu công nhân di cư, nam và nữ – và trong số này đặc biệt là những người trong các hoàn cảnh bất thường – về những người phải trốn chạy và tìm nơi nương thân, và về những người là nạn nhân của tình trạng buôn người. Bảo vệ những quyền không thể chuyển nhượng của họ, bảo đảm sự tự do căn bản của họ và tôn trọng phẩm giá của họ là những trách nhiệm không ai có thể được miễn trừ. Bảo vệ những anh chị em này là một mệnh lệnh đạo đức, nó chuyển sang việc phải thông qua những văn kiện pháp lý, cả quốc tế và quốc gia, phải thật rõ ràng và thích đáng; thi hành đúng và vượt qua những lựa chọn chính trị; dành ưu tiên cho những tiến trình xây dựng, những tiến trình này có lẽ chậm hơn, với kết quả trực tiếp từ sự đồng lòng; thực hiện những chương trình hợp thời và nhân đạo trong cuộc chiến chống lại “việc buôn bán con người” thu lợi nhuận trên sự bất hạnh của người khác; cộng tác những nỗ lực của tất cả các vai chính, trong đó quý vị có thể chắc chắn luôn luôn có Giáo hội.
Thăng tiến. Bảo vệ là chưa đủ. Điều đòi hỏi cần có là một sự thăng tiến chương trình phát triển con người toàn diện cho người di cư, người lưu đày và tị nạn. Điều này “diễn ra bằng cách chú tâm vào những sự tốt lành vô giá của công lý, hòa bình, và chăm sóc tạo vật” (Tông thư Humanam Progressionem, 17 tháng Tám 2016). Phát triển, theo học thuyết xã hội của Giáo hội (x. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội - Compendium of the Social Doctrine of the Church, 373-374), là một quyền không thể phủ nhận của mọi con người. Như vậy, nó phải được bảo đảm bằng cách bảo vệ những điều kiện cần thiết cho việc thực hành nó, cả trong bối cảnh cá nhân và xã hội, cung cấp sự tiếp cận công bằng đến những của cải căn bản cho tất cả mọi người và đưa ra cơ hội lựa chọn và phát triển. Tại đây cũng cần một nỗ lực hợp tác, một nỗ lực phải có tất cả các bộ phận tham gia: từ cộng đồng chính trị đến xã hội dân sự, từ các tổ chức quốc tế đến các đoàn thể tôn giáo. Sự thăng tiến con người cho người di cư và gia đình của họ bắt đầu từ những cộng đồng gốc của họ. Đó là nơi sự thăng tiến như vậy cần phải được bảo đảm, được kết hợp với quyền có thể di cư, cũng như quyền không bị ép buộc phải di cư (x. Benedict XVI, Thông điệp Ngày Quốc tế Người Di cư và Tị nạn, 12 tháng Mười 2012), tức là quyền được tìm những điều kiện cần thiết để sống một đời sống xứng đáng với phẩm giá trong quê hương của họ. Để đạt được mục tiêu này, các nỗ lực phải được khuyến khích đưa đến việc thi hành những chương trình của sự hợp tác quốc tế, thoát khỏi những lợi ích phe nhóm, và những chương trình phát triển liên quốc gia trong đó những người di cư là các vai diễn chính tích cực.
Hội nhập. Hội nhập, không phải là đồng hóa cũng không phải sự sáp nhập, là một tiến trình hai chiều, được đặt nền tảng đặc biệt trong sự đồng công nhận tính phong phú văn hóa của nhau: nó không phải là đặt văn hóa này chồng lên trên văn hóa khác, cũng không phải là sự cô lập lẫn nhau, với nguy cơ âm ỷ và nguy hiểm tạo ra những khu ổ chuột của người thiểu số. Liên quan đến những người đến và những người có trách nhiệm không được đóng cửa lòng mình trước văn hóa và những truyền thống của đất nước đón nhận, trên hết phải tôn trọng mọi luật pháp của đất nước đó, chiều kích gia đình của tiến trình hội nhập không được bỏ qua: vì lý do này tôi cảm thấy cần phải lặp lại sự cần thiết, thường được trình bày bởi Huấn quyền (x. Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp Ngày Di cư Quốc tế, 15 tháng Tám 1986), về những khế ước nhắm đến việc thăng tiến và lợi ích cho sự sum họp gia đình. Liên quan đến những người dân bản địa, họ phải được hỗ trợ, bằng cách giúp họ ý thức rõ và mở cửa cho những tiến trình hội nhập, đây là những điểm then chốt và không thể thiếu được cho tương lai, cho dù điều này không phải luôn đơn giản và hiệu quả ngay lập tức. Tiến trình này đòi những chương trình đặc biệt, trong đó thúc đẩy những sự gặp gỡ quan trọng với người khác. Hơn nữa, với cộng đồng Ki-tô hữu, sự hội nhập bình an của những con người thuộc nhiều văn hóa khác nhau, về một mặt nào đó, là một sự phản ánh tính công giáo của  nó, vì sự hiệp nhất, nó không phá bỏ sự đa dạng về sắc tộc và văn hóa, đóng góp một phần trong đời sống của Giáo hội, trong Thần Khí của Lễ Ngũ Tuần mở ra cho tất cả và khát khao ôm lấy tất cả (x. Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp Ngày Di cư Thế giới, 5 tháng Tám 1987).
Tôi tin rằng việc kết hợp bốn động từ này, với chủ ngữ ngôi thứ nhất số ít (ND: tôi) và chủ ngữ ngôi thứ nhất số nhiều (ND: chúng ta), là một bổn phận của ngày nay, một bổn phận chúng ta phải có đối với những anh chị em của chúng ta, những người vì nhiều lý do khác nhau, đã bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương: một trách nhiệm về công bình, về tình thân về tình đoàn kết.
Trước hết, trách nhiệm về công bình. Chúng ta không thể duy trì tính bất bình đẳng về kinh tế không thể chấp nhận được, nó ngăn cản chúng ta không thực hiện nguyên tắc mục tiêu toàn cầu về của cải của trái đất. Tất cả chúng ta được kêu gọi để bảo đảm những tiến trình phân chia trong sự tôn trọng, trách nhiệm và được thúc giục bởi những quy tắc về tính công bằng trong phân chia. “Chúng ta cần phải tìm ra những cách thức qua đó mọi người đều có thể hưởng lợi từ hoa trái của trái đất, không chỉ tìm cách tránh khoảng trống mở rộng giữa những người có của cải nhiều hơn và những người bắt buộc phải hài lòng với những mẩu bánh vụn thừa, nhưng trên tất cả đó là vấn đề của sự công bằng, sự bình đẳng và tôn trọng mọi con người” (Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình, 8 tháng Mười Hai 2013, 9). Không thể nào một nhóm người lại kiểm soát một nửa tài nguyên thế giới. Chúng ta không được phép để cho những người và cả các dân tộc chỉ được quyền thu nhặt những mẩu bánh vụn thừa. Và chúng ta cũng không được thờ ơ hay nghĩ rằng chúng ta được miễn thực hiện những mệnh lệnh đạo đức, chúng xuất phát từ trách nhiệm chung chăm sóc hành tinh, một trách nhiệm chung thường được nhấn mạnh bởi cộng đồng chính trị quốc tế, cũng như bởi Huấn quyền (x. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, 9; 163; 189, 406).
Trách nhiệm chung này phải được hiểu phù hợp với nguyên tắc bổ trợ, “nó cho quyền tự do phát triển những năng lực thể hiện ở mỗi cấp độ của xã hội, đồng thời vẫn đòi hỏi ý thức trách nhiệm lớn hơn về thiện ích chung từ những người nắm giữ quyền lực cao hơn” (Tông huấn Laudato Si’, 196). Bảo đảm công bằng cũng có nghĩa là hòa giải lịch sử theo tình hình toàn cầu hóa hiện tại của chúng ta, không giữ lại những quan niệm bóc lột người và khu vực, một hậu quả của việc áp dụng tính thị trường để gia tăng sự giàu có cho một số người. Như Đức Giáo hoàng Benedict khẳng định, tiến trình phi thực dân hóa đã bị trì hoãn lại “vì những hình thức của chủ nghĩa thực dân mới và cả việc tiếp tục bị lệ thuộc vào những thế lực nước ngoài cũ và mới, và vì sự vô trách nhiệm trầm trọng bên trong những quốc gia đã đạt được sự độc lập” (Tông thư Caritas in Veritate, 33). Với tất cả những việc này cần phải có sự uốn nắn lại.
Thứ hai, có một trách nhiệm về tình thân. Cam kết của chúng ta với người di cư, người phải di tản và người tị nạn là một cách áp dụng những nguyên tắc và giá trị của sự chào đón và tình huynh đệ góp phần vào một di sản chung của nhân loại và sự khôn ngoan mà chúng ta rút ra từ đó. Những nguyên tắc và giá trị theo lịch sử đã được hệ thống hóa trong Hiến Chương Toàn Cầu về Nhân Quyền, và trong nhiều hiệp định và những hiệp ước quốc tế. “Mỗi người di cư cũng là một con người với những quyền căn bản và không thể chuyển nhượng phải được mọi người tôn trọng trong mọi hoàn cảnh” (nt., 62). Ngày nay hơn bao giờ hết, điều cần thiết là phải khẳng định lại trọng tâm của nhân vị, không cho phép bất kỳ những tình huống tức thời và bổ sung nào, hay thậm chí việc hoàn tất cần thiết cho những đòi hỏi của việc bộ máy quan liêu và quản lý, làm mất đi phẩm giá trọng yếu này. Như Thánh Gio-an Phao-lô II đã trình bày, một “tình trạng pháp lý bất thường không được làm cho người di cư mất phẩm giá của họ, vì người đó được tặng ban những quyền không thể chuyển nhượng, là những quyền không được vi phạm và không được bỏ qua” (Gio-an Phao-lô II, Sứ Điệp Ngày Di cư Thế giới, 25 tháng Bảy 1995, 2). Từ trách nhiệm về tình thân sẽ lấy lại được giá trị của tình huynh đệ, được xây dựng trên kết cấu quan hệ bẩm sinh của nhân vị: “Một ý thức sống động về mối quan hệ họ hàng giúp chúng ta nhìn đến và đối xử với mỗi con người như một người anh em hoặc chị em thật sự; không có tình huynh đệ không thể xây dựng một xã hội công bình và một nền hòa bình vững chắc và bền lâu” (Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới, 8 tháng Mười Hai 2013, 1). Tình huynh đệ là một con đường quan hệ dân sự tốt nhất với thực tại của một người khác, nó không đe dọa chúng ta, nhưng gắn kết, tái khẳng định và làm phong phú giá trị cá nhân của chúng ta (x. Benedict XVI, Diễn từ trước các Tham Dự viên trong một Hội nghị Liên trường về “Thay đổi Giá trị Cá nhân, 28 Tháng Một 2008).
Cuối cùng là một trách nhiệm về tình đoàn kết. Trước những thảm kịch đã lấy đi mạng sống của quá nhiều người di cư và tị nạn – những cuộc xung đột, bách hại, những hình thức ngược đãi, bạo lực, giết hại – những cách thể hiện lòng thương cảm và chia buồn không thể giúp được gì nhưng đồng thời lại làm mạnh mẽ lên. “Em của ngươi đâu?” (St 4:9): câu hỏi này Thiên Chúa đã hỏi con người từ thuở tạo dựng, cũng là hỏi chúng ta, đặc biệt ngày nay liên quan đến những anh chị em của chúng ta đang di cư: “Đây không phải là một câu hỏi đặt cho người khác; nó là câu hỏi đặt ra cho chính tôi, cho bạn, cho mỗi người chúng ta” (Bài giảng tại Trại Thể Thao “Arena”, Salina Quarter, Lampedusa, 8 tháng Bảy 2013). Tình đoàn kết được sinh ra từ khả năng thấu hiểu nhu cầu của anh chị em chúng ta những người đang trong sự khó khăn và gánh lấy trách nhiệm cho những thiếu thốn này. Nói tóm lại, nó đặt trên nền tảng giá trị thiêng liêng của lòng mến khách, thể hiện trong các truyền thống tôn giáo. Đối với chúng ta là những Ki-tô hữu, lòng mến khách dành cho người lữ khách rã rời là dành cho chính Chúa Giê-su, qua một người lạ mới đến: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25:35). Trách nhiệm của tình đoàn kết là chống lại văn hóa loại trừ và dành nhiều chú ý hơn cho những người hèn mọn nhất, người nghèo nhất và yếu đuối nhất. Từ đó “một sự thay đổi về thái độ hướng đến những người di cư và người tị nạn là một phần rất cần thiết đối với mỗi người, bỏ đi những thái độ phòng thủ và sợ hãi, thờ ơ và gạt ra bên lề xã hội – tất cả là tiêu biểu cho một văn hóa loại trừ – hướng đến những thái độ đặt nền tảng trên văn hóa gặp gỡ, một văn hóa duy nhất có khả năng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, công bằng hơn và huynh đệ hơn” (Thông điệp Ngày Thế giới những Người Di cư và Tị nạn, 5 tháng Tám 2013).
Tóm kết những suy tư này, cho phép tôi hướng sự chú ý đặc biệt một lần nữa tới một nhóm người di cư, di tản và tị nạn không có khả năng bảo vệ, những người mà chúng ta được kêu gọi để chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập cho họ. Tôi đang nói đến những trẻ em và những người trẻ tuổi là những người bị buộc phải sống xa quê hương và bị tách ra khỏi những người thân yêu của các em. Tôi đã dành trọn Sứ điệp Ngày Thế giới những Người Di cư và Tị nạn gần đây để nói về các em, làm nổi bật cách “chúng ta cần phải làm việc hướng đến việc bảo vệ, sự hội nhập và những giải pháp lâu dài” (Sứ điệp Ngày Thế giới những Người Di cư và Tị nạn, 8 tháng Chín 2016).
Tôi tin rằng hai ngày này sẽ trổ sinh nhiều hoa trái của công việc tốt lành. Tôi cầu nguyện cho quý vị; và, xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn quý vị.
[Văn bản gốc: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Vatican cung cấp]


[Nguồn: zenit]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 22/02/2017]


Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế
Diễn từ của Đức Thánh Cha tại Diễn đàn Di cư và Hòa bình Quốc tế



Đức Gio-an Phao-lô II khiến quỷ tức giận

Đức Gio-an Phao-lô II khiến quỷ tức giận


Đức Thánh Cha đã thực hiện những lần trừ quỷ và cảnh báo nhân loại: quỷ vương đang hoạt động mạnh hơn bao giờ hết!




Đức Gio-an Phao-lô II làm quỷ tức giận
Vittoriano Rastelli/CORBIS/Corbis via Getty Images

Giáo hội mừng Lễ Kỷ niệm 38 năm bắt đầu triều đại của Đức Gio-an Phao-lô II, bắt đầu ngày 22 tháng Mười, 1978. Đúng ngày hôm đó, Đức Wojtyła đã để lại dấu ấn trong lịch sử và nhân loại với câu nói nổi tiếng, “Đừng sợ! Hãy mở rộng, mở rộng những cánh cửa cho Đức Ki-tô!”
Đức Gio-an Phao-lô II cũng là một nhà trừ quỷ, quỷ vương rất ghét và sợ ngài, theo cha Gabriel Amorth, nhà trừ quỷ nổi tiếng. Cho đến khi bắt đầu triều đại của ngài, việc trừ quỷ vẫn còn được coi là một cách thực hành “thời trung cổ” biến mất trước những tiến bộ của khoa học trong ngành tâm thần học, y khoa và công nghệ.
Vị giáo hoàng “đến từ một đất nước xa xôi” chuẩn y một hình thức mới của Nghi thức Trừ quỷ năm 1998, gần 400 năm sau nghi thức trừ quỷ trước đó được áp dụng. Chính ngài đã thực hiện nghi thức trừ quỷ bên trong những tường thành Vatican, được ký giả David Murgia dẫn chứng bằng tài liệu trong một chương trình truyền hình trên kênh TV2000, mạng lưới phát thanh và truyền hình của Hội đồng Giám mục Ý.
Khi ngài còn là một linh mục trẻ — theo các nguồn tư liệu của TV2000 — vị giáo hoàng tương lai người Ba lan đã thực hiện những lần trừ quỷ trên nhiều người bị những căn bệnh không thể lý giải được, và được cho là bị quỷ nhập.
Đức Hồng y Jacques-Paul Martin, Tổng Trưởng Đặc Trách Các Vấn Đề Nội Chính trong suốt triều đại của Đức Gio-an Phao-lô II, khẳng định trong hồi ký xuất bản sau khi ngài qua đời rằng vị giáo hoàng người Ba lan đã đối mặt với quỷ trong Vatican năm 1982, giải thoát cho một phụ nữ trẻ là nạn nhân bị quỷ nhập.
Đức Tổng trưởng kể tỉ mỉ việc đức Giám mục thuộc thành phố Spoleto, một vùng thuộc thủ phủ Perugia của Umbria, xin một buổi tiếp kiến với Đức Thánh Cha để trình bày cho ngài trường hợp của Francesca.
Đó là ngày 27 tháng Ba năm 1982, khi Francesca và gia đình của cô đi qua Quảng trường Thánh Phê-rô. Các bác sĩ đã không thể lý giải được vấn đề và người phụ nữ này đang dưới sự trông nom của một linh mục là nhà trừ quỷ, và là linh mục chính xứ của cô. Vì trường hợp của cô quá phức tạp không thể giải thích được nên Đức Giám mục Alberti của thành phố Spoleto đem người phụ nữ này đến trước Đức Giáo hoàng.
Linh mục xứ Santa Assunta (Cesi-Terni), cha Baldini Ferroni, đi theo Francesca và gia đình của cô đến Vatican và chia sẻ các chi tiết về những gì đã xảy ra. “Họ đưa chúng tôi đến một căn phòng nơi Đức Wojtyła đang đợi trong phẩm phục dâng Lễ.”
“Cô ấy không có cảm xúc. Đức Giáo hoàng đặt vào tay cô ta quyển sách nghi thức trừ quỷ và bắt đầu đọc bằng tiếng La-tinh. Cô gái bắt đầu run lên, nhưng nét mặt vẫn cứng đờ vô hồn,” cha Ferroni kể lại.
Cô ta bắt đầu lăn mình trên sàn nhà, la hét. “Chúng tôi nghe thấy tiếng cô ấy hét rít lên. Đức Gio-an Phao-lô II bắt đầu cầu nguyện, đọc nhiều lời nguyện khác nhau,” Đức Hồng y nhớ lại.
Sau nghi thức trừ quỷ, Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II yêu cầu những người có mặt không lo lắng và cứ tiếp tục cầu nguyện cho cô. Francesca bây giờ khỏe, cô đã lập gia đình, có 4 đứa con, và sống cuộc sống bình thường. Việc cô bị quỷ nhập không để lại hậu quả gì, như lời khẳng định của linh mục chính xứ khi nói với David Murgia, ký giả của TV2000.
Nói về quyền năng trừ quỷ được thực hiện bởi Đức Gio-an Phao-lô II, cha Amorth nhận xét, “Tôi đã thực hiện nghi thức trừ quỷ cho nhiều người, có những người thậm chí sau 20 năm vẫn không hoàn toàn được giải thoát. Luôn có những cải thiện, nhưng giải thoát họ lại là một vấn đề khác.”

Cuộc chiến tâm linh của ngài Wojtyła chống lại quỷ

Ngài Karol Józef Wojtyłla xem cuộc chiến tâm linh chống lại “trùm của các thần ô uế,” là quỷ vương, tương đương như việc loan truyền Lời Chúa. Ngài rất nhiều lần nói và viết về những dối trá và cám dỗ của tội.

Ngày 9 tháng Ba, 2003, trong giờ Kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phê-rô, vị giáo hoàng cao tuổi và đau bệnh cảnh báo thế giới về tình hình chiến tranh thế giới và sự cần thiết phải hoán cải tâm hồn của chúng ta trở lại với bình an thực sự.

“Về vấn đề này, còn gì thuyết phục hơn là hình ảnh của Đức Ki-tô, Người đã vạch trần và vượt qua những dối trá của Satan bằng sức mạnh của sự thật trong Lời của Thiên Chúa,” ngài nói.

Vị thánh tương lai lúc đó, nổi tiếng về tu đức và sự cầu nguyện đầy sức mạnh giữa những người cùng làm việc với ngài, khẳng định, “Bên trong tâm hồn của mỗi con người có thể nghe thấy tiếng của Thiên Chúa và tiếng xảo quyệt của thần ô uế. Thần ô uế tìm cách lừa gạt nhân vị, quyến rũ nó bằng viễn cảnh của những điều tốt đẹp ngụy tạo, dẫn đưa nó tách xa khỏi sự tốt lành thực sự trong việc thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa.”

Tháng Hai 2004, trong Sảnh đường Phao-lô VI, ngài nhắc nhở những người đang lắng nghe cách thức Đức Ki-tô  chống lại Satan. “Cả chúng ta nữa, giống như Đức Ki-tô, được kêu gọi để chống lại quỷ bằng tất cả sức mạnh và quyết tâm của chúng ta. Chỉ bằng cách này, cùng với sự gắn kết canh tân với thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có thể tín trung với ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: trở thành những sứ giả và chứng nhân của Tin Mừng.”
Trong rất nhiều lần, Đức Wojtyła làm sáng tỏ rằng việc làm của ma quỷ thể hiện qua những tội ác của ma túy, chiến tranh, luân lý suy đồi, bách hại người Ki-tô hữu, và những hệ tư tưởng trong mọi thời đại.

“Đức Gio-an Phao-lô II đã đưa ra rất nhiều bài diễn từ nói về Satan trên mức độ giáo lý, nhưng bài được biết đến nhiều nhất là bài diễn từ trước Hang Thánh Mi-ca-e Tổng Lãnh Thiên Thần, gần thành phố San Giovanni Rotondo, cạnh Padre Pio,” cha Amorth nói với TV2000 trong một trong những buổi phỏng vấn cuối cùng của cha với truyền thông. Cha Amorth qua đời tháng Chín năm 2016 ở tuổi 91.

Ngày 24 tháng Năm, 1987, trong chuyến viếng thăm của ngài đến đền thờ ở Foggia (trong vùng Apulia của Ý), Đức Gio-an Phao-lô II xin Thánh Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e trợ giúp chống lại quỷ, “vì quỷ vẫn sống và đang hoành hành trên thế giới. Quả thật, tội ác nằm trong đó, sự hỗn loạn mà chúng ta chứng kiến trong xã hội [...] không chỉ đơn thuần là hậu quả của tội nguyên tổ, nhưng cũng là kết quả của hoạt động của bóng tối phá hoại của Satan.”

“Sự thật là ‘quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi,’ như Chúa đã quả quyết (Mt 16:18), nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta thoát khỏi những thử thách và những cuộc chiến chống lại những cái bẫy của thần ô uế,” Đức Gio-an Phao-lô II khẳng định. Vào cuối Lễ, Đức Thánh Cha lặp lại bằng tiếng La-tinh, “Xin Thánh Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, bảo vệ chúng con trong cuộc chiến đấu.”

Cha Amorth chỉ ra rằng “hang của đền thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, nơi ngài cầm một thanh gươm và quỷ nằm dưới chân của ngài, đã làm tăng lên số hình tượng của Thánh Mi-ca-e ở khắp nơ, và nhân dịp đó, [đức thánh cha] cảnh báo chúng ta rằng quỷ đang hoạt động mạnh trong thời đại của chúng ta.”

“Với tất cả những ai không tin nó, tôi nói rằng quỷ đang dẫn lối họ vì nếu không biết nó tức là họ không ở cùng đức Ki-tô; họ về phe của Sa-tan.”

Quỷ thú nhận tại sao hắn lại sợ Đức Gio-an Phao-lô II

Cha Amorth, người trừ quỷ chính thức của giáo phận Roma, nói với TV2000 rằng cha khám phá ra lý do tại sao Thánh Gio-an Phao-lô II là một nhà trung gian đầy quyền lực để chiến đấu chống lại quỷ và giải thoát cho người bị quỷ nhập. Cha cũng bàn về chủ đề này trong quyển sách đồng tác giả với nhà báo người Ý, Pablo Rodari, nói rằng, “Tôi đã từng hỏi quỷ hơn một lần rằng, ‘Tại sao ngươi quá sợ ngài Gio-an Phao-lô II?’”

Trước hết, cha Amorth giải thích, quỷ trả lời rằng vị thánh giáo hoàng đã “bẻ gẫy những kế hoạch của hắn” trên trần gian. Cha Amorth giải thích thêm câu trả lời của quỷ hàm ý chỉ về sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và Mác-xít của Liên bang Xô-viết cũ.

Thứ hai, nhà trừ quỷ người Ý nói rằng quỷ phát điên lên với Đức Gio-an Phao-lô II vì ngài “đã kéo quá nhiều người trẻ vuột ra khỏi bàn tay của hắn.”

Cha Amorth giải thích rằng vì “có quá nhiều thanh niên, nhờ Đức Gio-an Phao-lô II, đã hoán cải trở lại. Có lẽ một số trước đây là Ki-tô hữu nhưng không giữ đạo, nhưng rồi với Đức Gio-an Phao-lô II họ đã trở lại.” Cha Amorth cũng làm nổi bật chi tiết khi Đức Gio-an Phao-lô II và Thánh Padre Pio là liên minh chống lại quỷ, rõ ràng ảnh hưởng của hai ngài không thể so sánh được với quyền năng của Mẹ Maria Đồng Trinh, Mẹ của Chúa Giê-su.

“Có lần tôi cũng hỏi Satan, ‘nhưng tại sao ngươi sợ khi ta khẩn cầu Đức Mẹ hơn là lúc ta khẩn cầu với Chúa Giê-su Ki-tô?’ Hắn trả lời tôi, ‘Vì ta thấy nhục nhã hơn khi bị đánh bại bởi một con người hơn là bị đánh bại bởi chính Ngài.” Điều cũng đáng lưu ý là trong suốt triều đại của Đức Gio-an Phao-lô II, Đức Thánh Cha quyết định rằng việc ưu tiên trong giáo phận Roma là bỏ nghi thức trừ quỷ xa xưa và huấn luyện các linh mục trong sứ mạng chữa lành và giải phóng tâm linh này.

Tháng Bảy năm 2014, Bộ Giáo sĩ, với phép lành của Đức Thánh Cha Phanxico, công nhận hợp pháp Hiệp hội các Nhà Trừ quỷ Quốc tế (IAE). Bằng cách này, Vatican chính thức công nhận nhóm 250 linh mục trong 30 quốc gia chiến đấu chống lại quỷ nhập.

[Nguồn: aleteia]
[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 21/02/2017]